Binh pháp Hồ Chí Minh về kết hợp đánh với đàm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (Tiếp theo và hết)

Trong thiết kế chiến lược về kết hợp đánh với đàm, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ chủ động mở mặt trận đánh và đàm theo một trình tự logic mà còn dự liệu từ trước lộ trình chiến lược kết thúc đàm và đánh.

Một là, ngoại giao là mặt trận có ý nghĩa chiến lược.

Thành công đầu tiên của đoàn đàm phán ở Paris là đã chủ động kiến nghị Bộ Chính trị điều chỉnh yêu cầu đối với đối phương, nhờ vậy đã tranh thủ thời gian để kịp đi tới thỏa thuận về việc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện vào ngày 31-10-1968 và sau đó tiến hành họp 4 bên vào ngày 25-1-1969. Thắng lợi này có tác động hỗ trợ lớn cho chiến trường miền Nam khi đó đang gặp khó khăn sau “màn 3” của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, đồng thời, “ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược”, được khẳng định trong Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4-1969. Sau khi Bác Hồ mất, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn gánh vác trách nhiệm lãnh đạo kết hợp đánh với đàm.

Tiểu ban Việt Nam-CP.50 tinh hoa đã làm việc không kể thời gian. Ở Paris, “binh chủng” ngoại giao và đối ngoại đã đoàn kết keo sơn gắn bó, phát huy tối đa trí tuệ tập thể và vai trò cá nhân phụ trách. “Bộ ba” Lê Đức Thọ-Xuân Thủy-Nguyễn Thị Bình và “bộ ba” Lê Đức Thọ-Xuân Thủy-Nguyễn Cơ Thạch đã phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả. Hai đoàn của ta “tuy hai mà một, tuy một mà hai”.

Hai là, “Mỹ phải ra, quân ta ở lại”.

Trong gần 3 năm đàm phán, phía Mỹ khăng khăng đòi hai bên phải cùng rút quân. Quán triệt lời dạy của Bác Hồ “dĩ bất biến ứng vạn biến”, ta luôn giữ vững nguyên tắc, nhưng sáng tạo và có sách lược mềm dẻo. Ngay từ ngày 8-5-1969, đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đưa ra “Giải pháp toàn bộ 10 điểm”, trong đó điểm 3 nêu rõ: “Vấn đề các LLVT Việt Nam ở miền Nam Việt Nam sẽ do các bên Việt Nam giải quyết”. Sau đó, ta luôn kiên trì sách lược này trong đấu tranh với Mỹ và Mỹ không có lý nào để bác lại (nội dung này đã được ghi ở Điều 13 của Hiệp định). Tới ngày 11-10-1971, trong đề nghị chuyển cho đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Mỹ mới không còn nêu vấn đề quân miền Bắc. Trong giai đoạn này, để hậu thuẫn cho đấu tranh ngoại giao, ta đã đẩy mạnh tiến công quân sự, làm thất bại cuộc tấn công của địch ở Mỏ Vẹt, Campuchia (tháng 4-1970) và làm phá sản cuộc hành quân Lam Sơn 719 sang Đường 9-Nam Lào (tháng 2-1971).

Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ với nụ cười thắng lợi tại Hội nghị Paris. Ảnh tư liệu

Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ với nụ cười thắng lợi tại Hội nghị Paris. Ảnh tư liệu

Ba là, độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế

Tinh thần và bản lĩnh độc lập tự chủ của tổ tiên được kế thừa, hun đúc trong tư tưởng Hồ Chí Minh “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào” luôn được các đồng chí Lê Đức Thọ, Xuân Thủy, Nguyễn Thị Bình cùng tập thể đoàn đàm phán quán triệt và thực hiện một cách khéo léo, triệt để trong suốt quá trình đàm phán ở Paris.

Sau thất bại quân sự ở Campuchia và Lào, Mỹ bắt đầu giở trò “đi đêm” với Trung Quốc và Liên Xô để ép ta. Sau chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Mỹ Richard Nixon vào tháng 2-1972, ngày 22-3-1972, Mỹ đã tuyên bố ngừng họp Hội nghị Paris vô điều kiện với hy vọng dùng tác động bên ngoài để ép ta.

Để hỗ trợ và thúc đẩy đàm phán tới lúc có thể ngả bài, theo chỉ thị của Bộ Chính trị, ngày 30-3-1972, Quân Giải phóng miền Nam mở Chiến dịch Xuân-Hè tấn công địch từ Quảng Trị đến Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Ngày 6-4-1972, Mỹ ném bom lại miền Bắc Việt Nam.

Tháng 5-1972, Tổng thống Nixon thăm Moscow. Hai lần Mỹ gợi ý Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ có thể tới Bắc Kinh và Moscow để “thảo luận nghiêm chỉnh” với Henry Kissinger tháp tùng các chuyến thăm của tổng thống, ta đều nhã nhặn từ chối và buộc Mỹ phải tiếp tục đàm phán trực tiếp với ta ở Paris. Khi gặp riêng được nối lại ngày 28-6-1972, Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đã nói thẳng với Cố vấn Kissinger: “Trong một ván cờ, quyết định thắng-bại phải là người trong cuộc, không có cách nào khác. Chúng tôi độc lập giải quyết vấn đề của chúng tôi”.

Những lần qua Liên Xô và Trung Quốc, đồng chí Lê Đức Thọ đã gặp và thông báo cho lãnh đạo hai nước về tiến trình đàm phán ở Paris nhằm tranh thủ tối đa sự ủng hộ của cả hai nước. Trong quá trình đàm phán ở Paris, đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân đã cùng chủ động và phối hợp chặt chẽ nhằm kết hợp tối ưu sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, xây dựng được “mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược”.

Sau khi ta đã giải phóng được Quảng Trị và Lộc Ninh, Bộ Chính trị quyết định đã tới thời cơ đi vào giải pháp trong đàm phán Paris trước bầu cử ở Mỹ. Ngày 8-10-1972, trong cuộc gặp riêng, Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đã trao cho Kissinger bản “Dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”. Trong thông điệp ngày 20-10-1972 gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Tổng thống Nixon đã xác nhận “văn bản Hiệp định coi như đã hoàn thành” và cam kết Hiệp định sẽ được chính thức ký kết ngày 31-10-1972 tại Paris.

Bốn là, “Mỹ chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.

“Hòa bình trong tầm tay” đã cuốn theo chiều gió khi Mỹ lật lọng và tiến hành Chiến dịch Linebacker II không kích Hà Nội bằng B-52 từ tối 18-12 đến 30-12-1972 nhằm ép ta ký Hiệp định theo sửa đổi của Mỹ. Nhưng Mỹ đã thất bại vì từ 10 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu và chỉ đạo chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược này khi Mỹ chưa đánh phá miền Bắc và chưa đưa quân vào miền Nam. Năm 1962, khi giao nhiệm vụ cho đồng chí Phùng Thế Tài, Người căn dặn: “Bây giờ chú là Tư lệnh Phòng không, vậy chú đã biết gì về B-52 chưa? Nói thế thôi chứ chú có biết cũng chưa làm gì được nó. Nó bay cao trên 10 cây số mà trong tay chú hiện nay mới chỉ có cao xạ thôi. Nhưng ngay từ nay, chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại máy bay B-52 này”.

Ngày 24-3-1966, Bác Hồ tới thăm Quân chủng Phòng không-Không quân (PK-KQ), xem xác máy bay không người lái tầng cao BQM-34A bị máy bay MiG-21 của ta bắn rơi ở độ cao 18km và căn dặn: Mỹ đã đưa máy bay B-52 vào chiến trường Việt Nam, liên tiếp gây tội ác với đồng bào ta ở miền Nam. Tên lửa của ta có thể bắn tới máy bay B-52, nhưng đánh thế nào để thắng thì cần nghiên cứu. Nhiệm vụ này Bác giao cho các chú PK-KQ. Chúng ta phải quyết tâm bắn rơi máy bay B-52, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược... Ngay từ bây giờ, các chú phải chuẩn bị đối phó vì sớm hay muộn, Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh phá miền Bắc...

Tháng 6-1966, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ tọa của Bác Hồ đã thống nhất chủ trương: Sớm đưa tên lửa phòng không vào Nam Quân khu 4 để nghiên cứu đánh B-52. Người đã chỉ thị cho Bộ đội PK-KQ: Muốn thắng địch thì phải hiểu địch, nắm chắc địch, muốn bắt cọp phải vào tận hang. Tháng 8-1966, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bác, Quân chủng PK-KQ bí mật đưa lực lượng tên lửa và radar vào chiến trường Vĩnh Linh, trực tiếp tìm hiểu tính năng kỹ-chiến thuật, nghiên cứu quy luật hoạt động, cách đánh phá của B-52, từ đó tìm ra cách đánh B-52 thích hợp. Trên tuyến đầu Vĩnh Linh, ngày 17-9-1967, ta bắn hạ 2 máy bay B-52 của Mỹ. Đây là chiến công lớn có ý nghĩa chiến lược, khẳng định tên lửa của ta có thể quật ngã “siêu pháo đài bay”.

Cuối năm 1967, sau khi nghe báo cáo của đồng chí Phùng Thế Tài (lúc này là Phó tổng Tham mưu trưởng), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua... Phải dự kiến trước mọi tình huống càng sớm càng tốt, để có thời gian suy nghĩ chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng; ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.

Nhờ dự báo tài tình cùng sự chỉ đạo sát sao của Bác Hồ, ta đã chuẩn bị chu đáo từ trước với sự giúp đỡ quý báu của Liên Xô và cuối cùng đã làm nên kỳ tích “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử không chiến thế giới. “Mặt trận trên không” đã được mở đầu và kết thúc đúng như dự liệu thiên tài của Bác. Sau thảm bại trong trận “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12-1972, Mỹ buộc phải ngừng ném bom miền Bắc và quay lại bàn đàm phán. Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký tắt ngày 23-1-1973 và được ký chính thức ngày 27-1-1973, với nội dung cơ bản như dự thảo của ta đưa ra hồi tháng 10-1972. Với thắng lợi ngoại giao này, thiết kế chiến lược của Bác Hồ về “đánh cho Mỹ cút” đã được thực hiện.

Năm là, “đánh cho ngụy nhào”.

Sau khi ký Hiệp định Paris, quán triệt sâu sắc thiết kế chiến lược của Bác Hồ trong Thơ chúc Tết Kỷ Dậu 1969, ta đã chủ động chuẩn bị các phương án có thể diễn ra. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 ngày 13-10-1973 nêu rõ: “Ta phải rất cảnh giác, kiên quyết, bền bỉ, khôn khéo, nắm vững phương hướng chung là ta phải mạnh trên cả 3 mặt trận (chính trị, quân sự, ngoại giao) để thắng địch, buộc địch thi hành Hiệp định, đồng thời chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn”.

Do ngụy quyền Sài Gòn được Mỹ hỗ trợ phá hoại Hiệp định Paris, tiến hành các cuộc hành quân “tràn ngập lãnh thổ” nhằm bình định, lấn chiếm vùng giải phóng, ta không còn lựa chọn nào khác ngoài con đường bạo lực cách mạng. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

"Ôn cố nhi tri tân", tiếp tục nghiên cứu thiết kế chiến lược-“binh pháp Hồ Chí Minh” về kết hợp đánh với đàm ở tầm cao của thời đại trong thế kỷ 20 sẽ giúp ta rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích, thiết thực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thế kỷ 21. Đó là dự báo chiến lược đúng đắn đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng và bố trí đúng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ngang tầm trọng trách; thiết kế chiến lược và triển khai thế trận kết hợp chính trị, kinh tế, quốc phòng, ngoại giao và văn hóa linh hoạt, phù hợp với từng thời điểm và ngang tầm thời đại; kết hợp tối ưu sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế nhằm tạo lực và thế mạnh hơn như Bác Hồ đã dạy kế sách tạo “thế thắng lực”: “Quả cân chỉ một ki-lô-gam, ở vào thế lợi thì lực của nó tăng lên nhiều, có sức mạnh làm bổng được một vật nặng hàng trăm ki-lô-gam. Đó là thế thắng lực”... Có như vậy mới có thể giữ nước từ sớm, từ xa và đạt được mục tiêu chiến lược của dân tộc trong từng bối cảnh thế giới và khu vực cụ thể luôn thay đổi.

TS NGUYỄN ĐÌNH LUÂN, nguyên Thư ký Hội đồng khoa học, Bộ Ngoại giao

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/quoc-phong-an-ninh/nghe-thuat-quan-su-vn/binh-phap-ho-chi-minh-ve-ket-hop-danh-voi-dam-trong-cuoc-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-tiep-theo-va-het-717103