Bình Phước có thể giải quyết tình trạng thiếu nước trong mùa khô
BPO - Tỉnh Bình Phước có diện tích tự nhiên hơn 6.873km2, là địa bàn chuyển tiếp giữa Tây Nguyên và vùng Đông Nam Bộ. Do đó, vào mùa khô hàng năm thường xuyên xảy ra tình trạng khô hạn, thiếu nước tưới tiêu cho nông nghiệp và sinh hoạt. Bài toán đảm bảo đủ nước cho sinh hoạt và sản xuất tuy có nhiều khó khăn nhưng không phải là không có cách giải. Vậy, tình trạng thiếu nước trong mùa khô có thể giải quyết như thế nào?
BÌNH PHƯỚC CÓ THỂ GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG THIẾU NƯỚC TRONG MÙA KHÔ
(Bức tâm thư gửi Hội Cựu chiến binh và Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bình Phước)
(Báo Bình Phước, 27-5-1998)
Các anh chị em và đồng chí thân mến, là một cựu chiến binh già của tỉnh Thủ Dầu Một cũ, tôi vô cùng xúc động khi được tin hạn hán đã và đang hoành hành khắp nơi ở Bình Phước, tin có 2 lao động bị tử nạn khi đào giếng, tin đồng bào quê nhà phải mua từng xe nước với giá trên 30.000đ/m3 để tưới cà phê và tiêu đang bị đe dọa chết khô, tin một cơ quan cấp tỉnh ở Đồng Xoài cũng phải đi mua từng m3 nước sinh hoạt với giá không dưới 50.000đ/m3. Tôi đâm lo, các bất cập này lại có thể tái diễn trong mùa khô năm tới, nên vội biên thư này cho các đồng chí đây, với lòng mong ước rằng các đồng chí, hiện đang sống trong lòng dân, các đồng chí hãy bàn bạc với bà con cô bác quê nhà, già nói chuyện với già, trẻ tính toán với trẻ, cùng nhau tìm cách thoát ra khỏi tình cảnh này, để còn cùng với đồng bào cả nước tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bàn bạc xong rồi, đề nghị các đồng chí thực hiện trước cho gia đình mình, để làm gương cho các gia đình khác. Suy cho cùng, bài toán đảm bảo đủ nước cho sinh hoạt và sản xuất ở tỉnh nhà, tuy có nhiều khó khăn nhưng không phải là không có cách giải, vì ta đâu có quên lời dạy của Bác Hồ: “… Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
I- Cách giải không phải tìm đâu xa, nên tìm lối ra từ nguồn nước mưa tại chỗ
Ai cũng rõ nước mưa có được là do nước từ mặt đất bốc hơi lên. Nước ngầm, nước giếng có được là nhờ cây cối giữ lại một phần nước mưa ngấm xuống đất. Nước suối, nước sông, nước ao hồ có được cũng do nước ngầm “sinh thủy” đầu nguồn và do nước mưa chảy tràn theo quy luật nước chảy về trũng. Nhưng nước mưa lại là nguồn nước ngọt và sạch mà con người có thể khai thác dễ dàng nhất để phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của mình. Nếu trong mùa mưa hàng năm, mà không có ai đó, bằng cách nào đó để thu giữ nước mưa, để cho nó chạy tuột hết ra biển, đúng là một sự phí phạm vô cùng to lớn về tài nguyên quốc gia. Được tin Quốc hội ta đang họp tại Hà Nội, sẽ thông qua một đạo luật gắt gao để “Quản lý tài nguyên nước”, trong đó có nước mưa. Kể ra cũng hơi trễ, nhưng trễ còn hơn không!
Rất may là Bình Phước được có lượng nước mưa hàng năm rất lớn, bình quân hàng năm được trên 2.000 m/m, có nhiều năm đạt từ 2.500 - 2.600 m/m. Hiểu nôm na, đều đều mỗi năm, mỗi m2 diện tích của tỉnh có thể nhận được 2m3 nước, tức là, theo lý thuyết, với tổng diện tích 6.814,22 km2 bằng 6,8 tỉ m2, toàn tỉnh có thể thu nhận được 13,6 tỉ m3 nước mưa, vừa ngọt, vừa sạch. Vậy, nếu ta bằng cách nào đó, khai thác được một phần nhỏ của lượng nước khổng lồ, thì cũng đã có thừa nước cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân trong toàn tỉnh.
II- Trước hết, ngay trong năm 1998 này ta nên tập trung sức giải quyết dứt điểm nhu cầu về nước sạch cho sinh họạt của mỗi nhà dân. Thử làm một bài toán nhỏ về cung và cầu.
Về nhu cầu, qua khảo sát, thấy bình quân, mỗi hộ dân với 5 nhân khẩu (hộ ít con bù cho hộ nhiều con), để lo cho việc ăn uống, vệ sinh cần có 5 thùng thiếc nước (thùng 20l) tức cần có khoảng 100l nước sạch mỗi ngày. Để bảo đảm đủ nước xài trong 6 tháng mùa khô, cần phải dự trữ 0,100 m3 x 365/2 ngày - 18,250m3.
Về cung, cách dễ có nước nhất, là hứng lấy nước mưa từ trên mái nhà của từng hộ gia đình. Nhà ở thì hiện nay, bình quân mỗi nhà dân cũng đạt được 50 m2 (nhà rộng bù cho nhà hẹp). Nếu mỗi nhà đều quyết tâm hứng cho hết nước mưa từ trên mái nhà mình, với lưu lượng 2.000 m/m/năm, thì, trên lý thuyết hộ dân nào cũng có thể thu được: 2 m2 x 50 m2 = 100,00 m3.
Nhưng trong thực tế, phải trừ đi các thất thoát do rơi vãi, do nước dự trữ còn bị bốc hơi, và nhất thiết còn phải bỏ đi một số trận mưa đầu mùa, nước mưa trên mái nhà chưa được sạch, tính cho mất đi hết 50%, thì còn được 50,00 m3, tức “cung” đã vượt hơn gấp đôi “cầu” rồi.
Mặt khác, cũng phải thấy đồng bào quê nhà thường có truyền thống giúp đỡ nhau, đào cho mỗi nhà một cái giếng sâu, để lấy nước tưới kiểng, tưới vườn hoặc sinh hoạt, do chưa nghĩ đến nước mưa. Ta chưa tính giếng nước này vào loại nước sạch như nước trời mưa, mà chỉ tính để đồng bào dùng vào việc khác, và thường thường các giếng sẽ bị cạn kiệt trong mùa khô hoặc khi có hạn hán như trong năm 1998 này.
Có 2 khó khăn trước mắt mà các đồng chí phải tính đến việc vận động này. Một là, về mặt tư tưởng và thói quen, thì đồng bào quê nhà, hiện nay chưa có nghĩ đến, nên chưa có thói quen, như đồng bào ở ngoài Bắc dự trữ nước mưa để sử dụng lâu ngày. Nhà nào có hứng nước mưa thì cũng tính dùng trong ít ngày, trong đầu mùa khô thôi, sau đó thì dùng nước giếng, nước sông, nước suối hoặc nước ao hồ. Nay phải giải thích kỹ, vận động nhiều, chắc đồng bào sẽ thông thôi, nhất là khi đã thấy các đồng chí thực hiện trước.
Còn cái khó khăn thứ hai, là khi đồng bào quê nhà đã thông rồi, thì phần lớn lại không có đủ vốn để xây bể chứa hoặc mua sắm dụng cụ chứa nước để dự trữ mặc dù đủ loại dụng cụ chứa nước đang bày bán trên thị trường. Cho nên, nhất thiết phải nhờ các cấp lãnh đạo tỉnh và huyện, thị, huy động mọi nguồn vốn có thể huy động được để tiếp sức với đồng bào, như các quỹ xóa đói giảm nghèo, ngân sách nhà nước hỗ trợ đồng bào các vùng sâu, vùng xa, quỹ của Liên hiệp quốc cấp nước sạch cho nông thôn và nếu cần cũng nên lập quỹ từ thiện “những tấm lòng vàng”. Lãnh đạo quyết tâm, trên dưới đồng lòng, sự nghiệp này chắc thành công thôi.
III- Ngoài ra, ngành thủy lợi cũng nên phát huy ưu thế của tỉnh nhà đang có nhiều con suối đã bị bỏ cạn kiệt trong mùa khô, để tích nước phục vụ cho các nhu cầu sản xuất nông, công, lâm, ngư nghiệp của nhân dân.
Xưa nay, các con suối này khi làm xong nhiệm vụ thu giữ nước mưa bổ sung cho các dòng sông lớn rồi bị bỏ khô. Nay nhiệm vụ này đã được 2 hồ nước lớn là hồ thủy điện Thác Mơ đã có và hồ Phước Hòa sẽ đắp trong tương lai gần, gánh vác nên nó có thể chắp cánh cho ngành thủy lợi hoàn thành tốt chức năng của mình, mà khỏi phải đầu tư gì lớn; nếu năm 1998, ngành cho thử nghiệm tại một số huyện, để rút kinh nghiệm phát triển rộng trong các năm tới. Đó là một mô hình có thể gọi là “kinh tế nước hồ - suối”, đơn giản, dễ làm nhưng hứa hẹn nhiều hiệu quả cao.
Nhớ lại nhiều năm trước đây, khi đến Sư đoàn 477 mới chuyển quân về vùng An Long - An Linh, đang bị thiếu nước cho sinh hoạt và cho tăng gia sản xuất rau xanh, theo nghề nghiệp của mình, tôi có khảo sát một con suối rất dài, nằm trong khu vực đóng quân của sư đoàn, đã bị bỏ khô. Suối rộng đến 10m và có độ dốc lý tưởng (khoảng 2%) để tạo dựng thành một “chuỗi” hồ nước nhỏ, theo kiểu bậc thang để tích nước mưa và điều tiết nước cho nhau trong mùa khô, rồi hai bên hồ có thể đào mương nhỏ, theo triền đất, lấy “nước tự chảy” đến các địa điểm cần có nước. Suối đã có được độ sâu, khi tích đầy nước, khoảng 1,50m, nên với một sơ đồ đơn giản, mở rộng từng đoạn suối, đắp đập đất làm “hồ ngang” theo hình chữ U, hở miệng về thượng lưu để hứng nước từ phía cao chảy xuống. Với độ sâu 1,50m, rộng 10m và độ dốc tự nhiên 20%, nếu ngăn suối rồi đắp cao hai bên một đập đất cao thêm khoảng 1m, dài 45,00m thành một hồ ngang rộng 100m, theo tính toán từ nước suối sẽ được “dênh” lên về phía thượng lưu gần 50m, nên độ sâu bình quân của nước hồ có thể đạt 2m, nhân công cải tạo 5.000m2 lòng hồ cũng không tốn bao nhiêu, mà mỗi hồ sẽ tích được khoảng 10.000m3 trong mùa mưa, để dự trữ cho mùa khô là một việc đáng làm, nếu ta nhớ năm nay 1998, nhân dân và cơ quan nhà nước phải chạy đi mua nước với giá 30.000 - 50.000 đ/m3. Mà một con suối nhỏ cũng có thể đào thành nhiều hồ ngang, có đập tràn để tiếp nước cho nhau, thành một “chuỗi” nhiều hồ để tích được nhiều nước mưa nhất và cũng dễ làm cống lấy nước tự chảy sang hai bên nhất. Rất mong Hội Cựu chiến binh và Đoàn thanh niên cũng làm nòng cốt cho ngành thủy lợi tỉnh nhà, năm nay, làm thử nghiệm trong vài huyện để động viên, rồi sang năm phát triển rộng ra. Do tiềm năng nước mưa của tỉnh nhà còn rất dồi dào và suối cạn lớn, nhỏ còn bị bỏ khô cũng không ít, chúc ngành thủy lợi tỉnh nhà thành công lớn.
TP.HCM 19-5-1998
KS.HUỲNH KIM TRƯƠNG
(Hội KHKT Xây dựng TP.HCM nguyên tham mưu trưởng Quân khu 7 kiêm chi đội trưởng Chi đội 1 Vệ quốc đoàn tỉnh TDM)