Bộ Công thương: Không chủ đầu tư nào tự nguyện dừng dự án điện than
Theo Bộ Công thương, 5 dự án điện than đang gặp khó khăn triển khai, thu xếp vốn, nhưng không chủ đầu tư nào tự nguyện dừng dự án.
Buộc phải để trong Quy hoạch Điện VIII
Vấn đề này được nêu trong tờ trình mà Bộ Công thương vừa gửi Chính phủ về việc phê duyệt đề án quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050 (Quy hoạch điện VIII).
Theo Bộ Công thương, tính đến hết tháng 9/2022, cả nước có 39 nhà máy nhiệt điện than, tổng công suất 24.674 MW đang vận hành.
Còn 12 dự án nhiệt điện than, tương ứng 13.792 MW đang trong quá trình chuẩn bị đầu tư, hoặc đang triển khai xây dựng.
Trong đó, 7 dự án với tổng công suất 6.992 MW đang xây dựng bao gồm nhiệt điện Thái Bình 2, Long Phú 1, Quảng Trạch 1, Vân Phong 1, Vũng Áng 2, An Khánh, Na Dương 2.
Trong số này, có dự án đã thu xếp được vốn, đang xây dựng, sẽ vào vận hành là Thái Bình 2, Quảng Trạch 1, Vân Phong 1, Vũng Áng 2.
Còn dự án nhiệt điện Long Phú 1 đang trong quá trình đàm phán với tổng thầu; 2 dự án An Khánh Bắc Giang và Na Dương 2 đã có phương án vay vốn trong nước.
Riêng 5 dự án khác, tương ứng tổng công suất 6.800 MW đang chuẩn bị đầu tư, nhưng có khó khăn trong triển khai và thu xếp vốn, bao gồm: Sông Hậu 2 (2.000 MW), Nam Định 1 (1.200 MW), Vĩnh Tân 3 (1.800 MW), Quảng Trị 1 (1.200 MW), Công Thanh (600 MW).
Tờ trình của Bộ Công thương cho rằng, "theo các văn bản gửi Bộ Công Thương gần nhất, không chủ đầu tư nào tự nguyện dừng dự án. Vì vậy, để tránh rủi ro pháp lý và đền bù nhà nước, cần tiếp tục để trong Quy hoạch Điện VIII các dự án này, nhất là các dự án BOT có chủ đầu tư nước ngoài".
Từng dự án khó khăn ra sao?
Về khó khăn của từng dự án, dự án Sông Hậu 2 (2.000 MW) được Chính phủ giao Tập đoàn Toyo In Group Berhad (Malaysia) làm chủ đầu tư từ tháng 3/2013. Các hợp đồng của dự án đã được ký kết vào tháng 12/2020, đã có hiệu lực pháp lý.
Chủ đầu tư đã thanh toán cho UBND tỉnh Hậu Giang 343,25 tỷ đồng tiền bồi thường, hỗ trợ tái định cư. Tuy nhiên, dự án chưa hoàn thành thu xếp vốn, đang đề nghị được gia hạn ngày đóng tài chính bắt buộc thêm 12 tháng, đến tháng 6/2023.
Dự án Vĩnh Tân III có quy mô công suất 1.800 MW, chủ đầu tư là tổ hợp gồm OneEnergy Ventures Limited (Hồng Kông, Trung Quốc), sở hữu bởi Mitsubishi Corporation (Nhật Bản) và CLP Holdings Ltd. (Hồng Kông), Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Bình Dương (Pacific).
Thủ tướng đã đồng ý đề xuất của tổ hợp nhà đầu tư về việc Pacific xin rút khỏi dự án, tuy nhiên thủ tục chưa hoàn thành. Dự án đã được phê duyệt FS và các tài liệu dự án đã được ký tắt vào tháng 12/2020, đang tìm phương án thay đổi các cổ đông sở hữu và đàm phán thu xếp vốn.
Dự án điện than Nam Định 1 (1.200 MW) được chấp thuận chủ trương đầu tư từ tháng 4/2017, hiện cũng tìm nhà đầu tư mới thay thế sau khi một cổ đông ngoại rút vốn.
Khó khăn nhất là dự án điện than Quảng Trị (1.200 MW), được Chính phủ giao cho chủ đầu tư - Công ty Điện lực Quốc tế Thái Lan (EGATi) từ tháng 8/2013. Tuy nhiên, dự án này gặp khó về thu xếp vốn, nên đang dừng đàm phán các hợp đồng triển khai.
Dự án nhiệt điện Công Thanh (600MW) không thu xếp được vốn, chủ đầu tư và UBND tỉnh Thanh Hóa đang đề nghị chuyển đổi sang sử dụng LNG, tăng công suất lên 1.500 MW. Bộ Công thương cho biết, dự án này không được cân đối trong cơ cấu nguồn điện than của Quy hoạch Điện VIII, nhưng vẫn giữ trong danh mục. Việc chuyển đổi dự án này sang điện khí LNG sẽ được xem xét trong quá trình thực hiện Quy hoạch điện VIII.
Số liệu từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho thấy, nhiệt điện than chiếm khoảng 31% tổng công suất lắp đặt hệ thống điện, khoảng 21.383 MW. 8 tháng đầu năm nay, nhiệt điện đóng góp gần 71,7 tỷ kWh, chiếm hơn 39% sản lượng điện toàn hệ thống.
Trước đó, Bộ Công Thương xin ý kiến Chính phủ bỏ 14.120 MW điện than và tăng phát triển năng lượng tái tạo, điện khí... để đạt mục tiêu "net zero" vào 2050.
Trong đó, có 8.420 MW do các tập đoàn Nhà nước được giao làm chủ đầu tư; Đầu tư theo hình thức BOT 4.500 MW và 1.200 MW chưa giao nhà đầu tư.
Việc này nhằm đạt mục tiêu giảm tối đa điện than, từ tỷ lệ 25-31% vào năm 2030 về còn xấp xỉ 10% năm 2045. Ngoài ra, dự án điện than mới sẽ không được phát triển sau năm 2030, và xem xét chuyển một số dự án dùng nhiên liệu than sang sử dụng LNG và phát triển điện khí LNG ở quy mô phù hợp.