Bỏ đình chỉ học sinh, chuyên gia cảnh báo giảm răn đe, 'nhờn luật'
TS. Đào Trung Hiếu đánh giá, việc bỏ đình chỉ học sinh thể hiện tinh thần nhân văn, nhưng có nguy cơ giảm sức răn đe, lung lay kỷ cương học đường, 'nhờn luật'.
Từ ngày 31/10, Thông tư 19 của Bộ GD&ĐT chính thức có hiệu lực, thay đổi cách thức xử lý học sinh vi phạm kỷ luật. Theo đó, thay vì tạm đình chỉ học hay các hình thức kỷ luật nặng nề như trước, học sinh chỉ bị nhắc nhở, phê bình hoặc viết bản tự kiểm điểm. Quy định mới thu hút sự quan tâm của dư luận với nhiều ý kiến trái chiều.

TS. Đào Trung Hiếu, Giảng viên Khoa Luật, Trường ĐH Mở Hà Nội, Chuyên gia Tội phạm học. Ảnh: NVCC.
Phóng viên Tri thức và Cuộc sống đã có cuộc trao đổi với TS. Đào Trung Hiếu, Giảng viên Khoa Luật, Trường ĐH Mở Hà Nội, Chuyên gia Tội phạm học về vấn đề đang “nóng” dư luận này.
Nguy cơ giảm răn đe, lung lay kỷ cương học đường, “nhờn luật”
Ông đánh giá thế nào về việc bỏ hình thức kỷ luật tạm đình chỉ học đối với học sinh tại thông tư 19, thưa TS Đào Trung Hiếu?
Tôi cho rằng Thông tư 19 thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của Bộ GD&ĐT trong việc chuyển trọng tâm từ “kỷ luật trừng phạt” sang “giáo dục phục hồi”. Đây là xu hướng tiến bộ, phù hợp với Công ước Quyền Trẻ em và các khuyến nghị quốc tế, đặt lợi ích phát triển nhân cách học sinh lên hàng đầu.
Tuy nhiên, cần nhìn nhận rõ: kỷ luật học đường không phải chỉ để trừng phạt mà còn để bảo vệ trật tự, quyền lợi của số đông học sinh khác và uy tín nhà giáo. Nếu bỏ hoàn toàn những chế tài mạnh, mà chỉ còn nhắc nhở, phê bình, tự kiểm điểm, trong khi thiếu công cụ quản lý song hành, thì nguy cơ lớn là tính răn đe giảm, kỷ cương học đường lung lay.
Từ góc độ tội phạm học, biện pháp kỷ luật nào trong trường học được đánh giá là có hiệu quả răn đe để ngăn ngừa học sinh tái phạm hành vi vi phạm nghiêm trọng, thưa ông? Liệu các biện pháp như nhắc nhở, phê bình, viết tự kiểm điểm có đủ sức răn đe để ngăn ngừa học sinh tái phạm hay có nguy cơ khiến các em coi thường nội quy và nhà trường?
Trong khoa học tội phạm học, người ta thường nhấn mạnh “tam giác phòng ngừa”: chắc chắn bị phát hiện - xử lý công bằng - chế tài đủ sức răn đe.
Đối với trường học, kỷ luật hiệu quả phải hội đủ ba yếu tố: (1) nhanh chóng và nhất quán, (2) minh bạch và công bằng, (3) có tính giáo dục và phục hồi. Nhắc nhở, phê bình, viết tự kiểm điểm phù hợp với hành vi vi phạm nhẹ, lần đầu. Nhưng với hành vi nghiêm trọng, lặp lại nhiều lần, ảnh hưởng xấu đến bạn bè và thầy cô, thì chỉ những biện pháp này sẽ không đủ sức ngăn ngừa tái phạm.
Nguy cơ “nhờn luật” là có thật: học sinh có thể hình thành tâm lý coi thường nội quy, xem kỷ luật như “nghi thức hành chính” chứ không phải giới hạn cần tôn trọng.
Cần bảo vệ quyền được học tập trong môi trường an toàn
Với những trường hợp vi phạm có tính chất nghiêm trọng, Thông tư mới có tạo ra “khoảng trống” pháp lý hay hành chính, tức là thiếu công cụ đủ mạnh để can thiệp? Liệu việc bỏ các hình thức đình chỉ hay đuổi học có làm giảm khả năng can thiệp kịp thời để bảo vệ các học sinh khác, bảo vệ môi trường học tập chung, thưa ông?
Ở một góc độ nhất định, bỏ các hình thức đình chỉ hay buộc thôi học có thể tạo ra khoảng trống can thiệp đối với các trường hợp vi phạm nghiêm trọng, nhất là bạo lực học đường có tính chất tội phạm.
Trong môi trường “xã hội thu nhỏ” như nhà trường, không chỉ quyền của học sinh vi phạm cần được tôn trọng, mà quyền được học tập trong môi trường an toàn của các học sinh khác cũng phải được bảo vệ.
Nếu thiếu công cụ đủ mạnh, nhà trường dễ lúng túng, xử lý kéo dài, dẫn đến bất ổn và mất niềm tin của phụ huynh. Ở đây, chúng ta cần nhìn kỷ luật học đường như một dạng “biện pháp bảo vệ” chứ không đơn thuần là “trừng phạt”.
5 hướng đề xuất, nhân văn và nghiêm khắc
Ông đề xuất gì để Thông tư mới được hoàn thiện trong thực tiễn, để vừa đảm bảo tính giáo dục, nhân văn, vừa giữ được sự nghiêm khắc cần thiết để vận hành hiệu quả nội quy trường học?
Tôi đề xuất năm hướng:
(1) Phân tầng hành vi vi phạm: nhẹ - vừa - nặng, với biện pháp ứng xử khác nhau, tránh “cào bằng” một mô thức cho mọi trường hợp.
(2) Thiết lập cơ chế can thiệp đặc biệt: cho phép tạm đình chỉ học tập hoặc chuyển học sinh vi phạm nghiêm trọng sang cơ sở phù hợp, đồng thời đảm bảo hỗ trợ tâm lý, giáo dục phục hồi.
(3) Bổ sung vai trò chuyên gia tâm lý, cán bộ xã hội học đường: giúp xử lý các trường hợp phức tạp, giảm gánh nặng cho giáo viên.
(4) Đồng bộ hóa truyền thông - pháp lý - quy định nội bộ: để phụ huynh, học sinh hiểu và chấp hành, tránh tâm lý “trường không dám làm gì”.
(5) Tôn vinh - bảo vệ vị thế người thầy: có chính sách bảo vệ giáo viên trước áp lực xã hội, tạo môi trường để thầy cô thực hiện kỷ luật công bằng, minh bạch mà không lo “tai bay vạ gió”.
Như vậy, Thông tư 19 nên được nhìn như bước khởi đầu của “giáo dục phục hồi” chứ không phải điểm kết thúc. Nếu có cơ chế “mềm” kết hợp “cứng”, vừa nhân văn vừa nghiêm khắc, chúng ta mới thực sự xây dựng được một môi trường học đường an toàn, kỷ cương, đúng tinh thần “vì lợi ích trăm năm trồng người” mà vẫn hợp chuẩn quốc tế.
Trân trọng cảm ơn ông!
TS. Đào Trung Hiếu cho hay, ở nhiều nước phương Tây áp dụng mô hình “restorative discipline” - kỷ luật phục hồi - với mục tiêu hòa giải và sửa chữa, không chỉ trừng phạt. Tuy nhiên, họ vẫn duy trì chế tài mạnh trong trường hợp nghiêm trọng: đình chỉ tạm thời, chuyển sang cơ sở giáo dục đặc biệt, hoặc can thiệp bằng dịch vụ xã hội.
Điểm quan trọng là họ có hạ tầng hỗ trợ: chuyên viên tâm lý học đường, cán bộ xã hội, hệ thống đánh giá hành vi và can thiệp từng cá nhân. Nhờ vậy, dù mềm mỏng về triết lý, hệ thống vẫn đủ công cụ “cứng” để bảo vệ cộng đồng học đường.
"Bài học rút ra là không thể “mềm” tuyệt đối mà không có “cứng” tương ứng", ông Hiếu nhấn mạnh.