Bỏ đình chỉ học sinh, chuyên gia cảnh báo sự 'nhầm lẫn' trong xử lý kỷ luật
Theo TS Nguyễn Tùng Lâm, bản kiểm điểm chỉ là tờ giấy ghi nhận sự việc, không thể thay thế việc học sinh phải chịu trách nhiệm cho hành vi sai trái của mình.
Từ ngày 31/10, Thông tư 19/2023 của Bộ GD&ĐT chính thức có hiệu lực, thay đổi cách thức xử lý học sinh vi phạm kỷ luật. Theo đó, các hình thức đình chỉ, kỷ luật nặng nề không còn được áp dụng, thay vào đó chỉ còn nhắc nhở, phê bình hoặc viết bản tự kiểm điểm. Quy định mới nhanh chóng tạo nên nhiều ý kiến trái chiều.
Phóng viên Tri thức và Cuộc sống đã có cuộc trao đổi với TS Nguyễn Tùng Lâm, Phó Chủ tịch Hội Tâm lý giáo dục Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng giáo dục Trường THPT Đinh Tiên Hoàng, người đã từng có góp ý từ Dự thảo Thông tư về vấn đề này.

TS Nguyễn Tùng Lâm, Phó Chủ tịch Hội Tâm lý giáo dục Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng giáo dục Trường THPT Đinh Tiên Hoàng, Hà Nội. Ảnh: Mai Loan.
“Không thể coi bản kiểm điểm là hình thức kỷ luật”
PV: Ông nhìn nhận thế nào về việc bỏ hình thức đình chỉ học sinh trong Thông tư 19, thưa TS Nguyễn Tùng Lâm?
TS Nguyễn Tùng Lâm: Tôi hoan nghênh thông tư 19 của Bộ GD&ĐT về tính nhân văn lấy học sinh làm trung tâm để xử lý kỷ luật với học sinh phổ thông các cấp. Tuy nhiên, tôi còn băn khoăn hai điểm:
Thứ nhất, học sinh phổ thông vẫn đang trong quá trình trưởng thành, cần được giáo dục để trở thành công dân có trách nhiệm. Nhưng điều đó không có nghĩa là chỉ cần nhắc nhở hay viết bản kiểm điểm là đủ. Bản kiểm điểm chỉ là tờ giấy ghi nhận sự việc, không thể thay thế việc học sinh phải chịu trách nhiệm cho hành vi sai trái của mình. Ở đây, Bộ GD&ĐT đã nhầm lẫn giữa việc “ghi nhận” và “xử lý kỷ luật”.
Thứ hai, Thông tư chưa chỉ ra mức độ sai phạm của học sinh để đưa ra mức độ, hình thức kỷ luật sao cho tương xứng, chỉ đánh đồng một mức “viết kiểm điểm”.
Ngay từ khi có dự thảo, tôi đã góp ý với Bộ GD&ĐT, rằng không thể chỉ dừng lại ở việc viết bản kiểm điểm. Mức độ kỷ luật phải đảm bảo học sinh ý thức được trách nhiệm của mình, đồng thời có tác dụng răn đe với tập thể. Nhưng đáng tiếc, ý kiến này đã không được chấp nhận.
PV: Có quan điểm cho rằng bỏ đình chỉ là xu hướng nhân văn, tạo cơ hội cho học sinh sửa sai. Theo Bộ GD&ĐT, Thông tư 19 thể hiện sự chuyển dịch từ "xử phạt" sang "giáo dục" và "hỗ trợ" học sinh, giúp các em sửa chữa sai lầm. Quan điểm của ông thế nào?
TS Nguyễn Tùng Lâm: Nhân văn là cần thiết, nhưng nhân văn không đồng nghĩa với buông lỏng. Tôi từng khảo sát mô hình trường học ở Mỹ. Ở bang California, có những trường công lập chuyên nhận học sinh cá biệt, nhưng được đầu tư cơ sở vật chất gấp bốn lần trường phổ thông bình thường. Lớp chỉ có vài học sinh để quản lý sát sao, trong trường còn có cả cảnh sát túc trực. Nghĩa là giáo dục đi kèm với pháp luật rất nghiêm ngặt.
Họ phân biệt rất rõ những sai sót của học sinh về mặt nội quy, về mặt đạo đức thì nhà trường trực tiếp giải quyết. Nhưng nếu học sinh vi phạm pháp luật, bạo lực học đường, vô lễ, đánh lại thầy cô thì phải có cơ quan pháp luật xử lý.
Nếu giáo viên xử lý sai quy định của pháp luật, phụ huynh hoàn toàn có thể kiện. Học sinh vi phạm pháp luật sẽ được cơ quan chức năng trực tiếp giải quyết, sau đó mới trả lại cho nhà trường và gia đình giáo dục. Như vậy, việc xử lý vừa đảm bảo quyền lợi, vừa giữ được kỷ cương.
Nguyên tắc “Ba chữ lý: Tâm lý, quản lý, pháp lý”
PV: Theo ông, đâu là nguyên tắc cốt lõi để xử lý học sinh vi phạm trong môi trường học đường?
TS Nguyễn Tùng Lâm: Tôi thường nói phải có “ba chữ lý”. Thứ nhất là Tâm lý: phải có phương pháp giáo dục, giúp học sinh rèn kỹ năng sống và hiểu đúng giá trị bản thân. Thứ hai là Quản lý: hiệu trưởng và nhà trường phải chịu trách nhiệm, không thể nói chung chung hay đổ lỗi. Thứ ba là Pháp lý: Phải có quy trình kỷ luật rõ ràng, giống như xử phạt giao thông, từng bước một. Khi học sinh vi phạm, gia đình cũng cần có trách nhiệm, thậm chí phải chịu chế tài tài chính hoặc pháp luật nếu con mình vi phạm nghiêm trọng.
PV: Nhiều phụ huynh lo ngại, để các học sinh có xu hướng bạo lực, thường xuyên vi phạm kỷ luật học chung với tập thể thì sẽ tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn. Ông nhìn nhận vấn đề này thế nào?
TS Nguyễn Tùng Lâm: Tôi đồng ý, vì thế phải có các biện pháp phân loại. Với những em không thể giáo dục trong môi trường phổ thông bình thường thì phải có hình thức cao hơn, như trường giáo dưỡng. Gia đình, nhà trường không giáo dục được thì phải chuyển sang mô hình khác. Các nước đều có cơ chế này. Nếu học sinh vi phạm nghiêm trọng, gây chết người chẳng hạn, thì dù còn vị thành niên vẫn phải vào trại giáo dưỡng hoặc khi đủ tuổi thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Pháp luật không thể bỏ qua.
PV: Thực tế, Trường THPT Đinh Tiên Hoàng của ông từng tiếp nhận nhiều học sinh cá biệt bị trường khác từ chối. Vậy kinh nghiệm từ trường ông thế nào?
TS Nguyễn Tùng Lâm: Tôi đồng ý không đuổi học sinh ra khỏi hệ thống giáo dục. Trường tôi vẫn nhận những học sinh bị nơi khác từ chối. Nhưng phải nhấn mạnh rằng “không đuổi” không có nghĩa là “bỏ mặc”. Nếu gia đình và học sinh không chấp nhận quy định riêng của nhà trường, thì phải lựa chọn hình thức giáo dục khác phù hợp hơn. Không thể để cả tập thể chịu ảnh hưởng vì một vài cá nhân.
Cần điều chỉnh sớm Thông tư
PV: Theo ông, việc bỏ hình thức tạm đình chỉ học sinh và một số biện pháp kỷ luật khác sẽ gây khó khăn gì cho giáo viên? Những hệ quả có thể xảy ra là gì?
TS Nguyễn Tùng Lâm: Nhiều giáo viên lo ngại họ đã bị “tước mất vũ khí” để giáo dục học sinh. Khi không còn công cụ xử lý, họ sẽ bối rối, không biết phải làm gì khi đối diện với học sinh hư. Nhưng theo tôi, vấn đề cốt lõi là phải đáp ứng đủ ba yêu cầu:
Thứ nhất, học sinh phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước pháp luật và nội quy nhà trường. Không thể vin vào lý do này khác để né tránh trách nhiệm.
Thứ hai, việc đánh giá đúng – sai phải khách quan, minh bạch. Chỉ khi đánh giá chuẩn xác thì việc xử lý mới có ý nghĩa răn đe và giáo dục.
Thứ ba, giáo dục vẫn là quan trọng nhất. Kỷ luật chỉ là một biện pháp trong giáo dục, không phải để “đày ải” học trò. Nếu không có kỷ luật thì làm sao dạy dỗ được?
Tôi đồng ý là không đánh đập, không dùng roi vọt. Nhưng cha ông ta đã nói “yêu cho roi cho vọt”, nghĩa là phải có sự nghiêm khắc thì học sinh mới trưởng thành. Đó là truyền thống, là tôn sư trọng đạo, hoàn toàn không trái pháp luật và đạo đức.
PV: Văn bản đã ban hành, vậy có giải pháp nào để khắc phục được những hạn chế ông vừa phân tích?
TS Nguyễn Tùng Lâm: Tôi nghĩ Bộ cần thay đổi sớm. Thông tư 19 vừa ban hành, chuẩn bị có hiệu lực, nhưng nếu thực tiễn cho thấy bất cập thì phải điều chỉnh ngay. Chúng ta không thể coi văn bản là bất biến, vì giáo dục luôn gắn liền với thực tiễn sinh động ở nhà trường.
Nếu không điều chỉnh, rất dễ dẫn đến tình trạng các trường đối phó, giáo viên mất đi sự chủ động, còn học sinh thì không cảm nhận được tính nghiêm túc của kỷ luật. Về lâu dài, điều này sẽ làm suy yếu kỷ cương trong môi trường học đường.
Do đó, tôi kiến nghị, Thông tư 19 của Bộ cần bổ sung phụ lục hướng dẫn quá trình xử lý khi học sinh phổ thông vi phạm kỷ luật, và đặc biệt cần phân biệt giữa phạm vi hai lỗi: Những lỗi vi phạm nội quy của nhà trường, của ngành thì nhà trường nên xử lý thế nào. Còn những vi phạm của học sinh về vi phạm pháp luật nhà nước thì phải được giao cho cơ quan bảo vệ pháp luật của địa phương gặp gỡ giải quyết trước, nhà trường chỉ tiếp thu để giáo dục.
Bộ cần lắng nghe nhiều hơn ý kiến từ cơ sở, đặc biệt là từ giáo viên và những người trực tiếp làm công tác giáo dục học sinh cá biệt. Đồng thời, phải tham khảo thêm kinh nghiệm quốc tế để có giải pháp phù hợp với điều kiện Việt Nam. Báo chí cũng cần góp tiếng nói phản biện mạnh mẽ để chính sách không xa rời thực tế.
Trân trọng cảm ơn ông!
Theo thông tư 19, học sinh vi phạm kỷ luật chỉ bị nhắc nhở, phê bình, cao nhất là tự viết bản kiểm điểm. Lý giải về điểm mới gây tranh cãi này, trao đổi với báo chí, đại diện Bộ GD&ĐT, ông Hoàng Đức Minh, Vụ trưởng Vụ Học sinh, sinh viên cho hay, Thông tư số 19 bởi Bộ GD&ĐT tiếp cận việc khen thưởng và kỷ luật với mục tiêu hoàn thiện hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Giáo dục, Luật Thi đua, khen thưởng và phù hợp với Luật Trẻ em cùng với hệ thống pháp luật hiện hành.
Theo đó, thông tư đề ra những nguyên tắc: Khen thưởng, kỷ luật học sinh phải bảo đảm tính giáo dục, nhân văn, vì sự tiến bộ của học sinh.
Do đó, điểm khác biệt nổi bật của thông tư 19 so với thông tư cũ là tính phù hợp bối cảnh thực tế và hệ thống luật pháp hiện hành.
Trao đổi với Tri thức và Cuộc sống, nhiều chuyên gia giáo dục, tội phạm học cũng đã lên tiếng cảnh báo, chỉ ra những bất cập của Thông tư, cho rằng, sự "nhân văn nửa vời" có nguy cơ làm giảm sức răn đe, lung lay kỷ cương học đường, khiến học sinh 'nhờn luật'.