Bộ GD-ĐT lý giải chuyện 'xếp hạng đạo đức giáo viên'
Đại diện Bộ GD-ĐT đã có lý giải về việc ở từng hạng giáo viên trong chùm thông tư mới về bổ nhiệm, xếp hạng lại có riêng tiêu chí riêng về đạo đức nghề nghiệp.
Mới đây, Bộ GD-ĐT đã ban hành các thông tư quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương giáo viên trong các cơ sở công lập. Nhóm thông tư không chỉ khiến nhiều giáo viên băn khoăn về các chứng chỉ chức danh nghề nghiệp; chuyện nâng, tụt hạng mà còn gây bất ngờ khi ở từng hạng giáo viên lại có riêng tiêu chí về đạo đức nghề nghiệp. Theo đó, cứ hạng cao hơn thì có thêm tiêu chí.
Chẳng hạn, với giáo viên mầm non hạng II, thì “ngoài các tiêu chuẩn với giáo viên mầm non hạng III, phải luôn gương mẫu thực hiện các quy định về đạo đức nhà giáo”.
Nhiều giáo viên cho rằng, số lượng chứng chỉ, tên văn bằng đào tạo, trình độ chuyên môn, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; thành tích và thâm niên công tác của từng cán bộ quản lý, giáo viên ở các cấp có thể khác nhau (xếp hạng I, hạng II, hạng III...), nhưng đạo đức nhà giáo thì không nên phân loại để xếp hạng.
Để làm rõ góc nhìn từ cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề tiêu chuẩn đạo đức cho từng hạng giáo viên, ông Đặng Văn Bình, Phó Cục trưởng phụ trách Cục Nhà giáo và Quản lý giáo dục (Bộ GD-ĐT) đã có những lý giải vấn đề này.
- Tại sao Bộ GD-ĐT lại ban hành các Thông tư 01, 02, 03, 04 quy định mã số, tiêu chuẩn, chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm xếp lương cho giáo viên mầm non, phổ thông công lập vào thời điểm năm 2021 này, thưa ông?
Ông Đặng Văn Bình: Có thể nói việc quy định về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, bổ nhiệm xếp lương giáo viên theo các hạng chức danh nghề nghiệp không phải là quy định mới, mà đã được thực hiện từ năm 2015, đối với cả giáo viên mầm non, phổ thông và đại học.
Sau khi Luật Viên chức năm 2010 có hiệu lực thi hành và triển khai các quy định liên quan đến Luật Viên chức thì Chính phủ ban hành các nghị định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức.
Theo đó, giao trách nhiệm cho các bộ, ngành phải có các quy định, hướng dẫn. Và theo thẩm quyền, Bộ GD-ĐT phối hợp với Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch 20, 21, 22, 23 quy định mã số, chức danh nghề nghiệp của giáo viên mầm non, phổ thông.
Cho nên chúng ta khẳng định, đây là các quy định mà giáo viên đã và đang thực hiện khi chùm thông tư mới chưa có hiệu lực thi hành.
Đáng lẽ ra, Bộ GD-ĐT chỉ sửa đổi, bổ sung những quy định mới nhằm khắc phục những điều còn bất cập trong quá trình thực hiện, tuy nhiên, theo Luật Ban hành Văn bản thì trước kia đó là Thông tư liên tịch giữa Bộ GD-ĐT và Bộ Nội vụ nên chúng tôi phải sửa đổi bằng cách ban hành thông tư mới để thay thế cho thông tư liên tịch đã ban hành.
- Như ông nói, rõ ràng các tiêu chuẩn về đạo đức nhà giáo đã được quy định từ năm 2015. Vậy ông có thể cho biết những điểm mới cơ bản có lợi hơn cho đội ngũ nhà giáo trong chùm thông tư 01, 02, 03, 04 mới này?
Hiện nay toàn quốc có hơn 1,2 triệu giáo viên mầm non và phổ thông. Trong đó, có khoảng hơn 80.000 giáo viên ở các trường ngoài công lập và khoảng hơn 60.000 giáo viên dạng hợp đồng lao động.
Như vậy, đối tượng giáo viên chịu tác động của các thông tư quy định tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương chỉ là những đối tượng đã là viên chức nhà nước và được tuyển dụng. Còn các đối tượng như giáo viên hợp đồng, hay giáo viên trường ngoài công lập sẽ không thuộc đối tượng áp dụng của các thông tư này.
Tuy nhiên hệ thống các trường ngoài công lập cũng như các cơ sở giáo dục công lập mà có giáo viên hợp đồng vẫn sử dụng những điều này để quản lý giáo viên của họ nhằm đảm bảo những tiêu chí thống nhất chung trong toàn ngành giáo dục.
Về điểm mới, khi chùm thông tư này ra, một mặt phải khắc phục được những bất cập trong quá trình thực hiện của chùm thông tư liên tịch 20,21, 22, 23; đồng thời phải bổ sung được những điểm mới của Luật Giáo dục và Luật Viên chức sửa đổi có hiệu lực từ năm 2020 cũng như một số quy định mới về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông cho phù hợp.
Thứ nhất, đối với giáo viên mầm non và tiểu học, trước đây cũng quy định 3 hạng nhưng là hạng IV, hạng III, hạng II (mà không có hạng I, do chuẩn trình độ đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học là trung cấp, nên phải áp dụng chức danh tương đương), nhưng khi Luật Giáo dục 2019 được ban hành, chuẩn trình độ giáo viên được nâng lên thì ở thông tư mới xếp giáo viên mầm non và tiểu học ở 3 hạng (hạng I, hạng II, hạng III) như giáo viên THCS và THPT.
Việc chuyển các quy định từ chùm thông tư cũ sang chùm thông tư mới sẽ đảm bảo chuyển hạng tương ứng. Cũng như vậy, các quyền lợi của giáo viên, cũng như các yêu cầu về thực hiện nhiệm vụ và tiêu chuẩn về năng lực sẽ được giữ nguyên hoặc theo chiều hướng có lợi cho giáo viên, chứ không có chuyện giáo viên bị giảm đi quyền lợi của mình.
Thứ hai là việc xếp lương giáo viên, trước đây tất cả giáo viên mầm non, tiểu học đều được xếp vào hạng lương cán sự (hệ số 1,86). Nhưng đến thời điểm này, giáo viên mầm non xếp vào hệ 2,10; giáo viên tiểu học xếp vào hệ 2,34, bởi lương được xếp theo trình độ đào tạo.
Đây cũng là một sự thuận lợi và cũng là giải quyết được một vấn đề mà nhiều giáo viên băn khoăn nhiều, bức xúc trong thời gian qua về việc lương phải được xếp theo trình độ đào tạo.
Thứ ba, chùm thông tư mới được ban hành quyết định không quy định giáo viên phải có trình độ ngoại ngữ, tin học mà tương đương với đó là các chứng chỉ ngoại ngữ, tin học.
Tuy các chùm thông tư mới không quy định nhưng không có nghĩa là hạ thấp yêu cầu, mà các yêu cầu này đã được Bộ GD-ĐT tính toán đưa vào các chương trình đào tạo, quy định chuẩn đầu ra của giáo viên cũng như đưa vào các chuyên đề bồi dưỡng nâng cao năng lực nghề nghiệp.
Yêu cầu này cũng được quy định trong các thông tư về tiêu chuẩn năng lực thực hiện nghề nghiệp của giáo viên. Có nghĩa là giáo viên nào cũng phải có năng lực công nghệ thông tin, ngoại ngữ trong hoạt động nghề nghiệp và một số nhiệm vụ cụ thể mà vị trí việc làm yêu cầu.
Thứ tư, việc quy định hạng chức danh nghề nghiệp đối với giáo viên sẽ không cứng nhắc. Có nghĩa một giáo viên mà suốt cả đời chỉ là giáo viên hạng 3 cũng không sao cả. Ai có nhu cầu thăng tiến trong nghề nghiệp thì sẽ có sự phấn đấu cả về mặt phẩm chất, nghề nghiệp, trình độ và năng lực để lên hạng 2, rồi hạng 1.
Khi giáo viên đã phấn đấu thăng các hạng cao hơn thì dĩ nhiên sẽ được hưởng các quyền lợi và chế độ cao hơn.
- Các thông tư mới vừa ban hành có tác động tới hơn 1,2 triệu giáo viên trên cả nước, rõ ràng có mặt tích cực, tuy nhiên một bộ phận giáo viên cũng còn những trăn trở băn khoăn, nhất là về tiêu chuẩn đạo đức với từng hạng giáo viên. Ông có suy nghĩ gì khi nghe những tâm tư đó?
Trước khi ban hành một chính sách mới và cả trong quá trình thực hiện chúng tôi đều lắng nghe tất cả ý kiến từ dư luận để có những nghiên cứu, xem xét. Có thể có những ý kiến mà mình cần làm tốt hơn để có lợi cho đối tượng mình quản lý, cụ thể là giáo viên, thì mình sẽ phải nghiên cứu xem xét để chỉnh sửa ngay.
Có những việc có thể còn vướng ở quy định này kia thì chúng ta cần phải có thời gian, lộ trình cụ thể. Tuy nhiên, Bộ GD-ĐT đều tôn trọng và trân trọng tất cả ý kiến đóng góp từ dư luận xã hội và các cá nhân.
Còn quy định về tiêu chuẩn đạo đức nhà giáo, nhà giáo đã có quy định riêng về đạo đức nhưng nhà giáo ở đây cũng là một viên chức. Do đó, chúng tôi phải có sự kết hợp cả tiêu chuẩn về đạo đức nhà giáo và đạo đức nghề nghiệp.
Việc ở mỗi hạng đều có tiêu chuẩn về đạo đức nhà giáo thì chúng tôi làm rõ rằng, chùm thông tư phải tuân thủ yêu cầu theo quy định của Luật, hướng dẫn của Chính phủ và Bộ Nội vụ. Cụ thể mỗi hạng chức danh nghề nghiệp ngoài tên hạng phải có 4 tiêu chuẩn: tiêu chuẩn nhiệm vụ, đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Chúng tôi chỉ có một quy định về tiêu chuẩn đạo đức nhà giáo thống nhất cho tất cả giáo viên ở các hạng. Nhưng ở các hạng cao hơn, chúng tôi có yêu cầu và mức độ thực hiện khác nhau.
Tất cả giáo viên hạng 2 đều phải thực hiện yêu cầu đạo đức của giáo viên ở hạng 3 nhưng đã phấn đấu lên hạng 2 thì thầy cô đều phải gương mẫu trong thực hiện các quy định này. Ở hạng 1 cũng phải thực hiện tất cả quy định ở hạng 3 nhưng khi đã phấn đấu lên hạng 1 thì thầy cô còn phải có nhiệm vụ hỗ trợ đồng nghiệp cùng thực hiện tốt các quy định này.
Chẳng hạn, với quần chúng chỉ cần chấp hành tốt nhưng Đảng viên thì phải nêu gương, gương mẫu. Hoặc trong công chức, chuyên viên sẽ phải chấp hành tất cả các quy định chung nhưng chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp hoặc những người ở chức danh lãnh đạo thì phải có trách nhiệm nêu gương, nhắc nhở, hỗ trợ đồng nghiệp thực hiện.
Trước đây, trong ngành đã xảy ra một số vụ việc đáng tiếc khi giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo. Rõ ràng, đối với giáo viên hạng 2, hạng 1 sẽ phải có trách nhiệm phát hiện những hành vi, biểu hiện để kịp thời hỗ trợ giúp đỡ để đồng nghiệp không dẫn đến hành vi vi phạm khiến xã hội, dư luận lên án.
- Hiện tình hình triển khai thực hiện chùm thông tư mới này ở các địa phương ra sao, thưa ông?
Các chùm thông tư 01, 02, 03, 04 có hiệu lực thi hành từ ngày 20/3/2021. Ngay sau khi Bộ GD-ĐT ban hành thông tư, một số địa phương đã rất tích cực chuẩn bị triển khai việc này và đã làm tốt công tác truyền thông, hỗ trợ giúp giáo viên hiểu. Phần đông giáo viên, cán bộ quản lý trên toàn quốc ủng hộ, bởi họ thấy rằng các quy định này cũng xuất phát từ các quy định đã có từ năm 2015, bây giờ chỉ bổ sung và bỏ những quy định bất cập.
Khi thông tư ban hành, để giúp các địa phương triển khai, Bộ GD-ĐT cũng đã ban hành văn bản số 971 ngày 12/3 vừa rồi để hướng dẫn các địa phương về bổ nhiệm, xếp lương giáo viên, thực hiện theo các thông tư này.
Chúng tôi tin rằng, qua hướng dẫn và triển khai thực hiện thông tư với kinh nghiệm của các địa phương, những vướng mắc cụ thể sẽ được các cấp thẩm quyền tổng hợp cụ thể lại và xem xét điều chỉnh. Những trường hợp địa phương phát sinh các trường hợp khó từ thực tiễn thì sẽ có tập hợp gửi Bộ GD-ĐT và Bộ Nội vụ để có hướng dẫn cụ thể.
Tới đây, trong chương trình công tác, Bộ GD-ĐT sẽ tổ chức hội nghị hướng dẫn triển khai đến các Sở GD-ĐT, Sở Nội vụ các địa phương và một số đại diện phòng giáo dục, nhà trường để thực hiện xếp lương theo chùm thông tư mới này.
Hải Nguyên (ghi)