Bộ Giáo dục và Đào tạo 'trần tình' về hệ số lương đặc thù cho giáo viên
Bộ Giáo dục và Đào tạo cho hay hệ số đặc thù là cần thiết khi chưa ban hành chính sách tiền lương mới nhằm nâng lương cho giáo viên.

Cô và trò Trường Trung học cơ sở Gò Đen (tỉnh Tây Ninh) trong tiết học Ngữ văn. (Ảnh: Đức Hạnh/TTXVN)
Tất cả các giáo viên đều được hưởng hệ số lương đặc thù là điểm đang được dư luận đặc biệt quan tâm trong dự thảo Nghị định quy định chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp đối với nhà giáo vừa được Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố để lấy ý kiến góp ý rộng rãi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Theo dự thảo, giáo viên mầm non được hưởng hệ số lương đặc thù mức 1,25 so với hệ số lương hiện hưởng; các chức danh nhà giáo khác được hưởng hệ số lương đặc thù mức 1,15 so với hệ số lương hiện hưởng. Đối với nhà giáo giảng dạy tại trường, lớp dành cho người khuyết tật, trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập, trường phổ thông nội trú vùng biên giới được cộng thêm 0,05 so với mức quy định.
Hệ số lương đặc thù được tính với mức lương và không dùng để tính mức phụ cấp với công thức tính mức lương như sau:

Thông tin tới báo chí tối ngày 5/11, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết dự thảo nghị định nhằm triển khai thi hành Luật Nhà giáo có hiệu lực từ ngày 1/1/2026 đồng thời khẳng định hệ số đặc thù là cần thiết khi chưa ban hành chính sách tiền lương mới.
Cụ thể, Luật Nhà giáo quy định “lương nhà giáo cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp”. Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng việc xếp lương của nhà giáo chỉ có thể giải quyết căn cơ khi Chính phủ ban hành chính sách tiền lương mới và thực hiện việc sắp xếp lại thang lương của nhà giáo cùng các viên chức ngành khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh Chính phủ chưa ban hành chính sách tiền lương mới thì việc ban hành quy định hệ số lương đặc thù (như dự thảo Nghị định quy định chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp đối với nhà giáo đang dự kiến) là cần thiết.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện lương của hầu hết nhà giáo đang xếp thấp hơn viên chức các ngành khác. Hệ số lương đặc thù không giúp lương của nhà giáo được xếp “cao nhất” nhưng sẽ giúp lương của nhà giáo được xếp “cao hơn” so với viên chức có cùng thang lương áp dụng. Đội ngũ nhà giáo cả nước trông mong vào sự đồng thuận của các cấp có thẩm quyền đối với quy định “hệ số lương đặc thù” để từng bước giải quyết các bất cập của hệ thống thang bảng lương hiện nay đồng thời thực hiện chủ trương “lương nhà giáo cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp”.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết chính sách tiền lương là giải pháp then chốt để góp phần thu hút người giỏi trở thành nhà giáo, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo từ đó nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, giúp nhà giáo an tâm công tác, cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nhưng để “lương nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp” trở thành hiện thực, Chính phủ cần có giải pháp cụ thể nhằm tác động, điều chỉnh hệ số lương mà nhà giáo hiện đang giữ.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, lương của hầu hết nhà giáo đang xếp thấp hơn viên chức các ngành khác. Hiện nhà giáo và các viên chức nói chung được áp dụng Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, hưởng mức lương khởi điểm tương ứng với yêu cầu về trình độ đào tạo (loại B đối với trình độ trung cấp, loại A0 đối với trình độ cao đẳng, loại A1, A2, A3 đối với từ trình độ đại học trở lên). Có 10 thang lương sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao, tương ứng từ thang 1 đến thang 10 là C1, C2, C3, B, A0, A1, A2.2, A2.1, A3.2, A3.1.
Trong 10 thang lương này, hiện chỉ có 03 chức danh nhà giáo được áp dụng lương của viên chức loại A3 là giảng viên đại học cao cấp, giảng viên giáo dục nghề nghiệp cao cấp, giáo viên giáo dục nghề nghiệp cao cấp, chiếm tỷ lệ khoảng 1,17% so với tổng số nhà giáo. Trong khi tỷ lệ này ở các ngành, lĩnh vực khác khoảng 10% so với tổng số viên chức của ngành, lĩnh vực (chức danh cao cấp).
Số chức danh nhà giáo cao cấp còn lại (hạng I ở cấp mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên, dự bị đại học) chiếm khoảng 8,83% so với tổng số nhà giáo, chỉ được xếp lương của viên chức loại A2 (tương đương chức danh viên chức chính của các ngành, lĩnh vực khác). Trong khi đó, theo quy định về nhiệm vụ của chức danh nghề nghiệp hiện nay, nhiệm vụ của tất cả viên chức cao cấp nói chung cũng giống với nhiệm vụ của nhà giáo cao cấp (hạng I) là xây dựng tài liệu, hướng dẫn viên chức các hạng thấp hơn; làm ban giám khảo, ban ra đề hoặc hướng dẫn tại các cuộc thi, hội thi; là nhóm tiên phong trong việc xây dựng, triển khai các định hướng đổi mới của ngành…
Bộ Giáo dục và Đào tạo cho hay khi rà soát, so sánh thang lương áp dụng, có thể thấy lương của hầu hết nhà giáo (trừ giảng viên cao đẳng, đại học, giáo viên giáo dục nghề nghiệp) đang xếp thấp hơn viên chức các ngành khác như y tế (bác sỹ, dược sỹ), xây dựng (kiến trúc sư, thẩm kế viên), giao thông vận tải (kỹ thuật viên đường bộ, quản lý, bảo trì công trình), tư pháp (lý lịch viên), văn hóa–thể thao (đạo diễn, diễn viên, họa sỹ, huấn luyện viên), khoa học công nghệ (nghiên cứu viên, kỹ sư), thông tin truyền thông (phóng viên, biên dịch viên, đạo diễn truyền hình)...
Viên chức các ngành khác đều được phân loại thành 3 – 4 hạng (từ hạng IV đến hạng I), hưởng lương từ A1 – A2.1 – A3.1 (tương ứng với thang lương 6 – 8 – 10). Trong đó, trừ viên chức y tế và viên chức khoa học, công nghệ yêu cầu trình độ tiến sỹ hoặc thạc sỹ với hạng I, các ngành khác chỉ yêu cầu trình độ đào tạo chung của viên chức từ hạng III đến hạng I là đại học.
Trừ giảng viên đại học, cao đẳng và giáo viên giáo dục nghề nghiệp, nhà giáo cũng được phân loại thành 3 – 4 hạng (từ hạng IV đến hạng I), hầu hết đang hưởng lương từ A0 – A1 – A2.2 – A2.1 (tương ứng với thang lương 5 – 6 – 7 – 8) là giáo viên mầm non, phổ thông, dự bị đại học, giáo dục thường xuyên (chiếm tỷ lệ khoảng 88% so với tổng số nhà giáo).
Bên cạnh đó, thang lương áp dụng đối với giáo viên mầm non hiện đang là A0 (2,10) – A1 (2,34) – A2.2 (4,00), theo 10 thang lương của viên chức thì lương của giáo viên mầm non đang ở thang 5 – 6 – 7 (các viên chức khác chủ yếu hưởng thang lương 6 – 8 – 10 như đã nêu ở trên).
Từ đó có thể thấy, thang lương áp dụng đối với giáo viên mầm non hiện đang thấp nhất trong số các chức danh nhà giáo và thấp hơn tất cả viên chức các ngành, lĩnh vực khác. Trong khi môi trường làm việc, tính chất hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non đã được thực tế chứng minh là nặng nhọc.
Theo Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu hiện trạng điều kiện lao động của giáo viên bậc học mầm non làm cơ sở đề xuất xếp loại danh mục nghề nặng nhọc độc hại, nguy hiểm” do Viện Khoa học an toàn và vệ sinh lao động, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nghiên cứu, điểm đánh giá về điều kiện lao động của giáo viên mầm non là 3,69 nằm trong khoảng điểm từ 3,37 – 4,56 tương ứng với điều kiện lao động loại IV – công việc có điều kiện lao động loại IV là nghề, công việc nặng nhọc. Đây cũng là căn cứ để tuổi nghỉ hưu của giáo viên mầm non được giảm 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu bình thường và đã được quy định cụ thể tại Điều 26 Luật Nhà giáo.
Cũng theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, một trong số nguyên tắc quan trọng khi thực hiện chế độ tiền lương là bảo đảm tương quan giữa các ngành, nghề và giữa các loại cán bộ, công chức, viên chức (theo quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 3 Nghị định số 204/2004/NĐ-CP). Tuy nhiên, việc xếp lương của nhà giáo hiện không bảo đảm tương quan giữa các ngành, nghề mặc dù có cùng yêu cầu trình độ đào tạo và nhà giáo đã được xác định là có vị thế quan trọng trong xã hội./.











