Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Các gói hỗ trợ của Việt Nam vẫn còn ở mức thấp
ng Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư đánh giá, các khoản hỗ trợ tại Việt Nam ước đạt 2,84% GDP, so với các nước trong khu vực thì vẫn còn thấp.
Các khoản hỗ trợ tại Việt Nam ước đạt 2,84% GDP
Sáng 1/10, tại Hội nghị Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế gắn với nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế giai đoạn 2022-2023, ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho biết: Đại dịch COVID-19 đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi mặt kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, Việt Nam đã và đang chịu nhiều ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, nhất là khi đợt dịch thứ 4 bùng phát vào tháng 7/2020. Kinh tế tăng trưởng chậm lại, quý III âm 6,17%, 9 tháng năm 2021 chỉ đạt 1,42%.
Các hoạt động sản xuất, lưu thông hàng hóa, các chuỗi cung ứng, tiêu dùng bị gián đoạn, đứt gãy; chi phí sản xuất tăng cao; năng lực nội tại, sức chống chịu của nền kinh tế ngày càng giảm sút; nguồn lực của cộng đồng doanh nghiệp ngày càng bị bào mòn; đời sống của người dân, người lao động gặp nhiều khó khăn.
Để hỗ trợ người dân và các doanh nghiệp, Chính phủ đã có hàng loạt chính sách hỗ trợ, bao gồm cả chính sách tài khóa và tiền tệ về thuế, phí, lệ phí, khoanh nợ, giãn nợ, gia hạn và giảm lãi suất các khoản vay, chi ngân sách nhà nước với quy mô khoảng 6,7 tỷ USD.
Nếu tính cả các khoản hỗ trợ qua các kênh khác như Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp, các khoản miễn, giảm cước viễn thông, điện, nước, học phí, quy mô các gói hỗ trợ năm 2021 là khoảng 10,45 tỷ USD, tương đương 2,84% GDP.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư nhận xét, so với nhiều nước trong khu vực như Thái Lan (11,4% GDP), Malaysia (5,3% GDP), thì mức hỗ trợ này 2,84% của Việt Nam là mức thấp.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, thời gian qua chính sách hỗ trợ của Việt Nam vẫn chủ yếu nhằm giải quyết khó khăn ngắn hạn về tài chính của doanh nghiệp, người dân, chủ yếu tác động về phía cung của nền kinh tế.
Các chính sách đang thiếu các giải pháp mang tính tổng thể, dài hạn, đồng bộ với nguồn lực đủ lớn để thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế gắn với cải cách cơ cấu, cải thiện năng lực cạnh tranh, sức chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc trong tương lai.
Kinh nghiệm quốc tế, khuyến nghị của các chuyên gia, tổ chức quốc tế đều cho rằng, Việt Nam cần phải xây dựng Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế, để không “lỡ nhịp” khi bước vào “trạng thái bình thường mới”.
Theo ông Nguyễn Chí Dũng, Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch mô hình tăng trưởng theo hướng kinh tế xanh, chuyển đổi số, công nghệ số, để chủ động tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng mới toàn cầu…cũng như xu thế chuyển đổi các hoạt động tài chính, thương mại, giáo dục, y tế, khám chữa bệnh… trên nền tảng trực tuyến.
Phấn đấu giai đoạn 2021-2025 tăng trưởng GDP đạt là 6,5-7%/năm
Trước thực tế đó, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng chương trình phục hồi và phát triển kinh tế.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã khẩn trương phối hợp với các bộ, cơ quan và địa phương để nghiên cứu xây dựng Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế gắn với nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế đến năm 2023.
Theo định hướng của Đảng, Quốc hội đến năm 2025, nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
Tăng trưởng GDP bình quân 5 năm khoảng 6,5-7%; đồng thời đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo, nâng cao rõ rệt về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Để thực hiện mục tiêu này, Chương trình cần đưa ra được các giải pháp cụ thể gắn với nguồn lực đi kèm, phù hợp với năng lực của nền kinh tế, khả năng cân đối ngân sách nhà nước.
Để phục hồi và phát triển kinh tế cũng cần xác định đối tượng ưu tiên hỗ trợ phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm, hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, các hoạt động kinh tế tạo động lực phục hồi và phát triển bền vững cho nền kinh tế.
Đồng thời, cần có giải pháp về y tế để chủ động “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả với dịch COVID-19”. Chính sách phải tổng thể, tác động cả về phía cung để giảm chi phí sản xuất, phía cầu để tạo đầu ra sản phẩm và các khâu kết nối, lưu thông hàng hóa, logistics.
“Thời gian thực hiện Chương trình cần đủ dài để có thể xây dựng và triển khai các giải pháp tạo cơ sở phục hồi mạnh mẽ, vững chắc cho doanh nghiệp, nền kinh tế, góp phần phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân cả giai đoạn 2021-2025 là 6,5-7%/năm”, ông Dũng nói.