Bỏ kiểm định với giáo dục phổ thông giúp giảm bớt gánh nặng cho nhà trường
Tôi đã đứng lớp hơn 30 năm và cũng được trải nghiệm 'cuộc chạy marathon' mang tên kiểm định chất lượng.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 110 quy định về mục tiêu, nguyên tắc, đối tượng kiểm định chất lượng giáo dục.
Điểm mới đáng chú ý là việc không tiếp tục áp dụng kiểm định chất lượng đối với các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên thông qua tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục như hiện hành. Thay vào đó, Dự thảo chuyển sang hình thức đánh giá chất lượng theo quy định của Bộ.
Lý do được đưa ra là quy định hiện nay không khả thi trên thực tế. Nếu áp dụng cơ chế kiểm định như đối với giáo dục đại học sẽ gây quá tải lớn, do số lượng trường mầm non, phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên lên tới hàng chục nghìn cơ sở (hơn 15.000 trường mầm non, 12.000 trường tiểu học, 10.700 trường trung học cơ sở, gần 3.000 trường trung học phổ thông...), trong khi hiện nay số tổ chức kiểm định đang hoạt động rất hạn chế, nhân lực kiểm định viên cũng không đủ đáp ứng yêu cầu. Chưa kể, Thông tư của Bộ quy định chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục là 5 năm.
Bên cạnh đó, việc kiểm định thông qua tổ chức kiểm định chất lượng sẽ phát sinh nhiều chi phí như hợp đồng đánh giá ngoài với tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục, chi phí cho thành viên đoàn đánh giá ngoài, tổ chức tập huấn, chuyên môn, nghiệp vụ cho các đơn vị, cá nhân thực hiện công tác tự đánh giá…, trong khi đó, đa số là cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên công lập, không có quyền tự chủ tài chính như cơ sở giáo dục đại học, nên rất khó đảm đương nguồn kinh phí cho hoạt động này.

Ảnh minh họa trên giaoduc.net.vn
Với người viết là một giáo viên gắn bó với giáo dục hơn 30 năm, tôi thấy đây là một điều cần thiết phải thay đổi.
Ám ảnh hồ sơ, minh chứng
Tôi đã đứng lớp hơn 30 năm và cũng được trải nghiệm “cuộc chạy marathon” mang tên kiểm định chất lượng để trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia mức độ 1, mức độ 2.
Chúng tôi đã từng thất thần trước cơ man nào là hồ sơ, báo cáo, minh chứng. Chúng tôi phải tìm và in lại những gì đã có như biên bản, tổng kết, sổ tay, số liệu giáo dục, thống kê hoạt động, báo cáo chuyên môn suốt 5 năm – dù tất cả đều đã được lưu trữ đầy đủ trong tủ hồ sơ. Nhưng khi làm thủ tục để trường được công nhận vẫn phải in lại, đóng thành tập mới.
Chúng tôi gom ảnh – không phải để lưu niệm, mà để minh chứng: từ cổng trường, biển tên trường đến khung cảnh trường lớp, bồn hoa, nhà vệ sinh, phòng chức năng, nhà xe đến... cả bậc thang dành cho học sinh khuyết tật. Tất cả không thiếu một chi tiết nào, bởi một chi tiết nhỏ cũng có thể làm hồ sơ "lệch chuẩn".
Nhà trường lập hội đồng kiểm định cấp trường, phân công người xử lý rất nhiều loại minh chứng, viết báo cáo, chỉnh sửa, công khai... chờ cấp trên góp ý. Góp ý xong lại chỉnh sửa bổ sung thêm. Cuối cùng, trường chờ đoàn cấp tỉnh về thẩm định lại lần nữa.
Trong khi đó, giáo viên vẫn lên lớp giảng bài, vẫn cặm cụi soạn bài, chấm bài mỗi tối.
Ban giám hiệu cũng chẳng nhẹ nhàng gì hơn. Những người được cử trong đoàn kiểm định đi khảo sát cũng không thảnh thơi: phải kiểm tra từng sổ sách, đối chiếu từng minh chứng, ghi nhận thực tế và viết một báo cáo gửi lên cấp trên.
Một guồng máy cồng kềnh – vận hành chỉ để “chứng minh” những gì vốn đã tồn tại. Một thủ tục kiểm định hình thức nhiều hơn thực chất.
Trao quyền tự chủ, tăng trách nhiệm nội tại
Nhiều tiêu chí trong đánh giá chuẩn hiện nay theo người viết đã trở nên lạc hậu, gò bó, thiếu linh hoạt. Một bộ tiêu chuẩn chung đang áp lên tất cả từ trường miền núi còn thiếu lớp học, không có thư viện, đến những trường vùng đô thị được đầu tư hiện đại dẫn đến “đồng đều hình thức”.
Trong thời đại hiện nay, trường nào không nâng cao chất lượng thì tự mình bị đào thải. Học sinh sẽ không chọn, phụ huynh sẽ không gửi con – đó là sự thanh lọc tự nhiên.
Vì vậy, khi chuyển sang cơ chế tự đánh giá nội bộ, nhà trường có trách nhiệm phải minh bạch, phải tử tế và phải làm thật. Không cần chờ 5 năm một lần để được chứng nhận đạt chuẩn. Nhà trường phải đạt được sự công nhận mỗi ngày từ phụ huynh và học sinh.
Thay vì tốn thời gian “đi xin chữ ký đóng dấu” như hiện nay, số hóa công tác đánh giá chất lượng là bước đột phá cần thiết.
Việc áp dụng công nghệ giúp tự động hóa quy trình thu thập, phân tích dữ liệu; rút ngắn thời gian lập báo cáo; minh bạch, truy xuất nhanh chóng; cơ quan quản lý dễ dàng theo dõi, chỉ đạo sát thực tế.
Chia sẻ về vấn đề đánh giá kiểm định chất lượng giáo dục, một hiệu trưởng trường chuẩn quốc gia vừa trải qua đợt được đánh giá công nhận lại chia sẻ: “Bản thân rất ủng hộ quy định về đánh giá kiểm định trong dự thảo mới theo hướng tự đơn vị đánh giá sẽ sát sườn hơn không nặng vấn đề về hồ sơ mang nặng tính hình thức như trước đây.
Nếu quy định mới được thông qua sẽ giảm nhiều áp lực cho trường học và cho cả giáo viên trong việc kiểm định.
Nhà trường, giáo viên sẽ không còn cần làm đẹp bản báo cáo nữa. Khi không còn áp lực chạy theo hồ sơ, giáo viên và nhà trường sẽ tập trung hơn vào cải tiến giảng dạy, bồi dưỡng chuyên môn, đổi mới phương pháp”.