Bỏ room tín dụng: 'Nóng' cuộc đua thị phần

Việc dỡ bỏ cơ chế room tín dụng không chỉ đặt ra yêu cầu kiểm soát dòng vốn hiệu quả, mà còn buộc các ngân hàng phải giành thị phần bằng năng lực. Nói cách khác bỏ room tín dụng buộc các ngân hàng thương mại phải tăng trách nhiệm và năng lực tự chủ.

Cạnh tranh thị phần tín dụng bằng giảm lãi suất

Tại Công điện số 104/CĐ-TTg về tăng cường hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiến tới điều hành tăng trưởng tín dụng theo công cụ thị trường và bỏ điều hành theo hạn mức tăng trưởng tín dụng.

Việc bỏ room tín dụng giúp Việt Nam tiệm cận chuẩn quốc tế, phù hợp mục tiêu nâng hạng thị trường tài chính. Ảnh: Quang Vinh

Việc bỏ room tín dụng giúp Việt Nam tiệm cận chuẩn quốc tế, phù hợp mục tiêu nâng hạng thị trường tài chính. Ảnh: Quang Vinh

Câu chuyện room tín dụng (hạn mức tín dụng – PV) đã được NHNN áp dụng với các ngân hàng thương mại (NHTM) từ năm 2011. Biện pháp này được đưa ra trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng nóng đã đẩy lãi suất và lạm phát lên cao, khiến hệ thống ngân hàng rơi vào trạng thái mất thanh khoản và đe dọa sự ổn định vĩ mô.

Sau giai đoạn đó, NHNH chuyển sang điều hành theo cơ chế áp dụng mức trần tín dụng cho các tổ chức tín dụng. Quá trình triển khai biện pháp điều hành tăng trưởng tín dụng từ năm 2011 đến nay cho thấy, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đã giảm từ mức trên 30%/năm (cá biệt có năm tăng gần 54%) xuống còn khoảng từ 12-15%/năm trong những năm gần đây.

Hiện nhiều ngân hàng dựa vào trần tín dụng như một điểm tựa an toàn. Một số ngân hàng, dù công bố áp dụng chuẩn Basel II hoặc Basel III, vẫn chưa có sự xác nhận độc lập về năng lực quản trị rủi ro nội tại, khiến chính bản thân họ cũng không đủ tin tưởng vào hệ thống của mình để tự quyết định việc mở rộng tín dụng.

Ông Nguyễn Tú Anh - Đại học VinUni, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (NHNN) nhận định, việc duy trì room tín dụng trong thời gian dài cũng bộc lộ những điểm nghẽn cần tháo gỡ, đặc biệt là tác động tiêu cực tới cạnh tranh và khách hàng. Ông Tú Anh lấy ví dụ về các khoản vay theo kỳ hạn ngắn (3 – 6 tháng), khi đến kỳ tái cấp vốn thì ngân hàng lại thông báo hết room. Điều này đẩy khách hàng vào thế khó, bởi rất khó xoay sở nguồn vốn mới trong thời gian ngắn.

Một thực tế khác được ông Tú Anh chỉ ra là một số ngân hàng hiện không muốn từ bỏ cơ chế phân bổ room, bởi điều này tương đương với việc chia sẵn thị phần. Khi không cần cạnh tranh để thu hút khách hàng, các ngân hàng sẽ thiếu động lực hạ lãi suất.

“Vì sao NHNN bơm rất nhiều tiền ra thị trường mà lãi suất vẫn không giảm? Là do thị phần đã được phân bổ sẵn, ngân hàng không cần giảm giá để giành khách hàng. Nếu bỏ room, cạnh tranh sẽ được kích hoạt và đó mới là điều tốt cho nền kinh tế” - ông Tú Anh nói song cũng lưu ý, NHNN vẫn có nhiều công cụ khác để kiểm soát hệ thống như: điều chỉnh hệ số an toàn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay lãi suất trên phần dự trữ... nhằm đảm bảo ổn định và an toàn cho toàn hệ thống khi chuyển đổi cơ chế.

Ngân hàng thương mại cạnh tranh nhau để giữ thị phần. Ảnh: M.H

Ngân hàng thương mại cạnh tranh nhau để giữ thị phần. Ảnh: M.H

Ông Đỗ Bảo Ngọc - Phó Tổng giám đốc Công ty Chứng khoán Kiến Thiết cho rằng, việc bỏ room tín dụng giúp Việt Nam tiệm cận chuẩn quốc tế, phù hợp mục tiêu nâng hạng thị trường tài chính. “Quan trọng hơn, bỏ room tín dụng buộc các NHTM phải tăng trách nhiệm và năng lực tự chủ. Theo đó, thay vì “xin room”, NHTM phải tự quyết việc tăng tín dụng dựa trên sức khỏe tài chính và khả năng quản trị rủi ro” - ông Ngọc nhận định.

Đối với NHTM, việc bỏ room tín dụng sẽ giúp họ chủ động hơn khi lập kế hoạch tín dụng, tối ưu hóa lợi nhuận, đặc biệt trong mùa cao điểm nhu cầu vốn cuối năm. Thị trường chứng khoán cũng kỳ vọng hưởng lợi gián tiếp khi dòng vốn tín dụng linh hoạt, hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng hoạt động.

Tuy vậy, để tránh lặp lại “vết xe đổ”, các chuyên gia cho rằng, cần có “bộ phanh” hiệu quả. Nếu không, khi room tín dụng được gỡ bỏ, tín dụng sẽ ồ ạt chảy vào bất động sản ngân hàng đua lãi suất, nợ xấu tăng cao, gây bất ổn kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng nhanh, nhưng phải bền vững của Chính phủ.

Tăng trưởng tín dụng không quan trọng bằng chất lượng tín dụng

Từ đầu năm 2024, NHNN đã chuyển sang giao chỉ tiêu tín dụng cho các tổ chức tín dụng (TCTD) có kiểm soát, thay vì áp dụng đồng loạt như trước. Bước sang năm 2025, chỉ tiêu tín dụng đã được gỡ bỏ hoàn toàn đối với ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Hiện chỉ còn áp dụng với các NHTM trong nước. Đây được xem là bước đệm quan trọng trong lộ trình tiến tới bãi bỏ hoàn toàn công cụ “room” tín dụng.

Một trong những lo ngại lớn nhất khi bỏ room tín dụng là nguy cơ tín dụng tăng trưởng mất kiểm soát – điều từng xảy ra trong quá khứ. Từ năm 2010 đến nay, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam không những không giảm mà còn liên tục tăng, hiện đã chạm ngưỡng 134%, mức được nhiều tổ chức cảnh báo là đáng lo ngại.

Chưa kể tín dụng còn chảy vào các lĩnh nóng như bất động sản, chứng khoán, lo ngại bong bóng tài sản hiện hữu.

Thống kê của NHNN cho thấy: Từ đầu năm đến nay lãi suất tiền gửi của các NHTM tương đối ổn định, một số ngân hàng đã điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi. Từ đầu tháng 7 đến nay, một số NHTM điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi gồm Bắc Á giảm 0,1% tất cả các kỳ hạn và loại hình tiền gửi và VIB giảm 0,1%/năm kỳ hạn 36 tháng tiền gửi tại quầy từ 1 tỷ đồng đến dưới 5 tỷ; ngân hàng Bảo Việt điều chỉnh giảm 0,15-0,2%/năm ở các kỳ hạn 6-13 tháng… Trước đó, cũng có một số ngân hàng điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi niêm yết như Lộc Phát giảm 0,2%/năm kỳ hạn 18-60 tháng cho hình thức gửi trực tuyến, Quốc Dân giảm 0,1%/năm tùy kỳ hạn… Lãi suất cho vay tiếp tục có xu hướng giảm từ đầu năm đến nay. Lãi suất cho vay bình quân mới ở mức 6,23%/năm, giảm 0,7%/năm so với cuối năm 2024, qua đó góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, cá nhân phát triển sản xuất kinh doanh.

Ông Nguyễn Quang Thuân – Chủ tịch FiinGroup – khẳng định: Tăng trưởng tín dụng bao nhiêu không quan trọng bằng việc tín dụng được phân bổ như thế nào. Tăng 16% hay 20% không đáng bàn bằng việc dòng tiền ấy thực sự đi vào đâu và tạo ra giá trị gì cho nền kinh tế.

Ông Nguyễn Quang Ngọc - Phó Trưởng ban Chính sách tín dụng Agribank cho biết, với mạng lưới hoạt động rộng khắp, Agribank đã xây dựng các bộ tiêu chí quản lý tín dụng nội bộ dựa trên phân tích cả từ phía khách hàng và phía hệ thống. Trong bối cảnh tiến tới xóa bỏ room tín dụng, Agribank cũng đã xây dựng các kịch bản tăng trưởng tín dụng theo ngành, lĩnh vực, đồng thời tăng cường kiểm tra – kiểm soát nội bộ để đảm bảo chất lượng tín dụng đi cùng với tốc độ tăng trưởng.

Ông Nguyễn Quang Ngọc chia sẻ thêm, nếu không còn phân bổ tín dụng từ NHNN, các tổ chức tín dụng sẽ phải tự xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng, không chỉ dựa vào quy mô vốn mà còn phụ thuộc vào năng lực quản trị rủi ro thực chất của từng đơn vị. Sự sai lệch giữa mục đích vay và sử dụng vốn, nếu không được phát hiện và xử lý đúng lúc, sẽ ảnh hưởng đến hệ số an toàn vốn và kéo theo rủi ro hệ thống.

Công cụ kiểm soát thay thế là gì?

Việc bỏ room tín dụng chỉ là vấn đề thời gian. Nhưng cũng có câu hỏi được đưa ra, một khi room tín dụng được gỡ bỏ, cơ quan quản lý sẽ quản lý cung tiền cho thị trường như thế nào?

Theo các khuyến nghị quốc tế, về lý thuyết, việc loại bỏ trần tín dụng có thể khiến dư nợ toàn hệ thống tăng nhanh hơn, khi đó, lãi suất có thể sẽ có lúc chịu áp lực tăng. Do đó, NHNN cần chủ động cao hơn điều hành chính sách lãi suất một cách linh hoạt, đảm bảo hài hòa giữa cung tiền, lãi suất và tỷ giá.

Ông Lê Thanh Tùng – Ủy viên Hội đồng quản trị VietinBank chia sẻ, hiện NHNN đã có trong tay nhiều công cụ theo chuẩn quốc tế như Basel II. Cụ thể, Thông tư 41/2016/TT-NHNN quy định về tỷ lệ an toàn vốn; Thông tư 13/2018/TT-NHNN về hệ thống kiểm soát nội bộ; Thông tư 22/2019/TT-NHNN quy định về giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng… Các quy định này giúp giám sát hiệu quả thanh khoản và rủi ro.

TS Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng chia sẻ, mới đây, NHNN đã ban hành Thông tư 14/2025/TT-NHNN, quy định rất kỹ về bộ đệm an toàn vốn, do đó các NHTM cần nghiêm túc nghiên cứu và thực hiện theo.

Khi bỏ hạn mức tín dụng, thay vì NHNN tính toán các chỉ số an toàn vốn thì các NHTM phải tự tính toán và hoàn toàn chịu trách nhiệm. Một khi có sai phạm, ngân hàng sẽ bị đưa vào diện cảnh báo sớm và chịu kỷ luật nghiêm khắc. Tóm lại, việc bỏ “room tín dụng” là xu hướng đúng, nhưng cần điều kiện nền tảng đủ mạnh để đảm bảo an toàn trong dài hạn, cũng như có lộ trình cẩn trọng và có kiểm soát, nhằm đảm bảo vừa ổn định hệ thống vừa đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế và hỗ trợ tăng trưởng bền vững.

Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Tiến Dũng:

Ở nhiều nước, việc cho vay không còn phụ thuộc hoàn toàn vào lịch sử tín dụng, mà dựa trên dòng tiền thực tế, hành vi chi tiêu, thậm chí là dữ liệu di chuyển, vận động cá nhân. Đây là xu hướng mà Việt Nam có thể tiếp cận, nếu có hệ thống dữ liệu tốt và cơ chế chia sẻ phù hợp.

Thúy Hằng

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/bo-room-tin-dung-nong-cuoc-dua-thi-phan-10311663.html