Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình nghị quyết gỡ các 'điểm nghẽn của điểm nghẽn'
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết việc xây dựng, trình ban hành nghị quyết về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật là rất cần thiết để kịp thời gỡ những 'điểm nghẽn' làm kìm hãm, cản trở... sự phát triển.
Chiều 20-6, tiếp tục phiên làm việc, Quốc hội đã nghe báo cáo tờ trình và thẩm tra dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Dự kiến, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo Nghị quyết tại kỳ họp này, có hiệu lực thi hành từ 1-7-2025 và được thực hiện đến hết 28-2-2027.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh. Ảnh: QH
Kịp thời gỡ các “điểm nghẽn” làm kìm hãm, cản trở sự phát triển
Trình bày tờ trình, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, Chính phủ đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Tuy nhiên, việc này mới chỉ giới hạn trong phạm vi thuộc thẩm quyền của Chính phủ, đối với các vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết, pháp lệnh thì vẫn phải trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định nên nhiều trường hợp còn chậm, chưa kịp thời.
“Việc xây dựng, trình Quốc hội ban hành Nghị quyết về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật là rất cần thiết để kịp thời tháo gỡ những “điểm nghẽn” làm kìm hãm, cản trở, gây ách tắc phát triển kinh tế - xã hội” – theo bộ trưởng.
Theo ông Nguyễn Hải Ninh, đây cũng là cơ sở pháp lý giúp gỡ các vướng quy định của pháp luật trong các lĩnh vực quan trọng, ưu tiên, cấp bách cần xử lý ngay để kịp thời khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế, đưa pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh.
Dự thảo nghị quyết quy định ba tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. Cụ thể, quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật.
Tiêu chí thứ ba là quy định của văn bản quy phạm pháp luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ; hạn chế việc đổi mới, sáng tạo, phát triển mô hình kinh doanh mới, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế.
Theo bộ trưởng Bộ Tư pháp, dự thảo luật cũng quy định hai phương án xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Phương án một là giải thích hoặc hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Phương án hai là ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành.
Với phương án này, ông Nguyễn Hải Ninh cho biết các khó khăn, vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải được xử lý theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Dự thảo Nghị quyết cho phép Chính phủ được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội do Chính phủ trình, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất.
“Trường hợp đồng thời phải sửa đổi, bổ sung các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không do Chính phủ trình thì phải xin ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội” – Bộ trưởng Tư pháp nói và cho hay việc này nhằm đảm bảo tính linh hoạt, kịp thời tháo gỡ những “điểm nghẽn” trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa được sửa đổi, bổ sung.
Riêng các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các khó khăn, vướng mắc do quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác thì cơ quan ban hành văn bản phải sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng. Ảnh: QH
Ưu tiên sửa các dự án luật, nghị quyết thuộc Chương trình lập pháp năm 2025 - 2026
Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng, cho hay Ủy ban tán thành sự cần thiết ban hành nghị quyết. Tuy nhiên, về phạm vi điều chỉnh, cơ quan này đề nghị ưu tiên giải pháp sửa đổi luật, nghị quyết để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là đối với các dự án luật, nghị quyết thuộc Chương trình lập pháp năm 2025 - 2026.
Cạnh đó, khi Quốc hội ban hành nghị quyết này, đề nghị rà soát, chỉnh lý các quy định về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc trong một số dự thảo luật trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp này để bảo đảm thống nhất với quy định của Nghị quyết.
Ủy ban Pháp luật và Tư pháp cũng cơ bản tán thành với quy định của dự thảo Nghị quyết về quy trình xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật theo hướng có sự phân tách như dự thảo.
Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị, đối với trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành văn bản xử lý khó khăn, vướng mắc thì nghiên cứu quy định cụ thể trong nghị quyết này quy trình xây dựng, ban hành văn bản theo hướng rút gọn hơn. Nội dung này bao gồm cả về thời hạn và quy trình các bước để đáp ứng yêu cầu kịp thời, bảo đảm rõ ràng, minh bạch.
Về hiệu lực của nghị quyết, cơ quan thẩm tra đề nghị xác định rõ “trong năm 2025 cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật và đến ngày 28-02-2027 phải hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh, nghị quyết có liên quan”.
Nêu lý do, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp nói Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị yêu cầu “năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những điểm nghẽn do quy định pháp luật”.
Riêng về thời điểm có hiệu lực của Nghị quyết, Ủy ban đề nghị quy định Nghị quyết có hiệu lực từ ngày được Quốc hội thông qua để các cơ quan, tổ chức kịp thời triển khai thực hiện, đáp ứng yêu cầu rất khẩn trương của thực tiễn.