Bộ Tư pháp – Trụ cột thẩm định, tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế

Trong 80 năm hình thành và phát triển, Bộ Tư pháp Việt Nam đã khẳng định vai trò 'gác cổng' tin cậy cho hệ thống thể chế, đặc biệt nổi bật trong giai đoạn 2020–2025. Đây là thời kỳ Chính phủ giữ vị trí là cơ quan đề xuất chính sách, trực tiếp tiếp thu, giải trình và chịu trách nhiệm đến cùng về chất lượng các dự án luật do mình trình trước Quốc hội.

Nhờ sự tham mưu tích cực của Bộ Tư pháp, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay đã tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ, minh bạch, bao phủ hầu hết các lĩnh vực đời sống với khoảng 300 luật, bộ luật đang có hiệu lực. Giai đoạn 2021–2024, Bộ Tư pháp đã thẩm định 175 đề nghị xây dựng văn bản và 1.002 dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) – khối lượng công việc lập pháp đồ sộ, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng các dự án luật trình Quốc hội. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh nhấn mạnh rằng những thành tựu chung của đất nước gần 40 năm qua có sự đóng góp quan trọng của ngành Tư pháp, với tinh thần trách nhiệm, tận tâm, cống hiến cho thắng lợi công cuộc đổi mới.

Hiện trạng

Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV (2021–2026) được hoạch định bởi Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật do Bộ Chính trị thông qua năm 2021, đặt ra mục tiêu hoàn thiện đồng bộ thể chế để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển giai đoạn 2021–2025. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15 (5/11/2021) nhằm triển khai Kết luận 19-KL/TW của Bộ Chính trị, giao nhiệm vụ cho Chính phủ và các cơ quan hữu quan chủ trì nghiên cứu, đề xuất 109 nhiệm vụ lập pháp trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Khối lượng công việc này là rất lớn, trải rộng từ các luật kinh tế – xã hội cho tới quốc phòng – an ninh.

Chính phủ đã chủ động vào cuộc quyết liệt. Từ đầu năm 2025 đến giữa năm, Chính phủ đã xem xét, cho ý kiến hơn 50 dự án luật, nghị quyết, riêng tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV đã trình Quốc hội 43 dự án luật, nghị quyết, bao gồm nhiều nội dung quan trọng, đáp ứng đòi hỏi thực tiễn và tạo động lực phát triển mới. Cùng với đó, Chính phủ duy trì các phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật hằng tháng để kịp thời cho ý kiến chỉ đạo về các dự án luật, hồ sơ chính sách do các bộ, ngành trình. Điều này cho thấy công tác lập pháp giai đoạn vừa qua hết sức khẩn trương, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống.

Trong bối cảnh đó, Bộ Tư pháp – với chức năng quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật – giữ vai trò trung tâm điều phối, thẩm định các dự án luật của Chính phủ. Theo Luật Ban hành VBQPPL năm 2025 (Luật số 64/2025/QH15), Bộ Tư pháp được giao chủ trì thẩm định chính sách và thẩm định các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết trước khi trình Chính phủ. Quy định mới này thể chế hóa chủ trương đề cao trách nhiệm người đứng đầu, đảm bảo mỗi dự án luật đều phải qua “khâu lọc” kỹ lưỡng về mặt pháp lý, kỹ thuật trước khi Chính phủ thông qua để trình Quốc hội.

Nhờ cơ chế đó, Chính phủ thực hiện đúng vai trò cơ quan trình dự án luật và chịu trách nhiệm trọn vẹn với dự án luật do mình trình; còn Quốc hội tập trung vào chức năng lập pháp, xem xét thông qua hoặc không thông qua dự án luật ấy. Sự phân định rõ vai trò này giúp khắc phục tình trạng trước đây cơ quan soạn thảo đôi khi “ngỡ ngàng” với chính dự án luật do mình đề xuất sau khi được chỉnh lý.

Thành tựu

Giai đoạn 2020–2025 đã ghi dấu những thành tựu nổi bật của Bộ Tư pháp trong công tác tham mưu xây dựng và hoàn thiện thể chế. Bộ đã tích cực phối hợp với các bộ, ngành tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội triển khai các nội dung định hướng lớn về xây dựng pháp luật, nổi bật là cụ thể hóa Kết luận 19-KL/TW của Bộ Chính trị (về định hướng chương trình lập pháp Quốc hội khóa XV) và Nghị quyết 27-NQ/TW (về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới).

Đặc biệt, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Trưởng Nguyễn Hải Ninh, Bộ Tư pháp đã chủ trì tham mưu để Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới. Ngay sau đó, Bộ đã giúp Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết số 197/2025/QH15 (17/5/2025) về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và thi hành pháp luật, và Nghị quyết số 206/2025/QH15 (24/6/2025) về cơ chế đặc biệt xử lý vướng mắc do quy định pháp luật. Những nghị quyết mang tính đột phá này đã kịp thời gỡ “điểm nghẽn” thể chế, trao cho Chính phủ công cụ linh hoạt để xử lý các quy định mâu thuẫn, chồng chéo, không còn phù hợp, tránh kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội.

Về công tác xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp đã trực tiếp chủ trì soạn thảo hoặc phối hợp hoàn thiện nhiều dự án luật “xương sống” của hệ thống pháp luật. Trong nhiệm kỳ này, Bộ đã tham mưu trình Quốc hội thông qua các luật quan trọng như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh (2025), Luật Thủ đô (sửa đổi, 2024), Luật Công chứng (sửa đổi, 2024), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản (2024), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (2020), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam (2023)…

Đặc biệt, Bộ đã chủ trì xây dựng và trình thông qua Luật Ban hành VBQPPL năm 2025 – đạo luật quan trọng thể chế hóa tư duy đổi mới quy trình lập pháp, đề cao trách nhiệm của cơ quan trình luật và cơ quan thẩm tra trong toàn bộ vòng đời dự án luật. Những đạo luật này vừa đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn, vừa tạo nền tảng pháp lý lâu dài để phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.

Công tác thẩm định của Bộ Tư pháp cũng đạt nhiều kết quả ấn tượng, đóng góp thiết thực nâng cao chất lượng các dự án luật, pháp lệnh. Các Hội đồng thẩm định do Bộ chủ trì đã xem xét kỹ lưỡng từng chính sách, từng quy định trong dự thảo luật. Hầu hết ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp đều thể hiện tinh thần trách nhiệm, được cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan thẩm tra tiếp thu, đánh giá cao, xem đó là ý kiến quan trọng để hoàn thiện dự luật.

Nhờ quá trình thẩm định nghiêm túc, nhiều vấn đề bất cập, mâu thuẫn trong dự thảo văn bản đã được phát hiện sớm và chỉnh sửa trước khi trình Quốc hội. Thực tế cho thấy chất lượng xây dựng pháp luật đã dần đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tiễn, hệ thống pháp luật ngày càng minh bạch, dễ tiếp cận, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế – xã hội. Đáng chú ý, trong lĩnh vực pháp chế bộ, ngành, Bộ Tư pháp đã hướng dẫn kiện toàn tổ chức pháp chế, tăng cường năng lực đội ngũ làm công tác xây dựng pháp luật – nhân tố then chốt giúp nâng cao chất lượng soạn thảo ngay từ các bộ, cơ quan ngang bộ.

Bên cạnh xây dựng luật, Bộ Tư pháp cũng hoàn thành khối lượng lớn công việc về tổ chức thi hành pháp luật và kiểm tra văn bản. Bộ đã chủ trì theo dõi, kiểm tra hàng nghìn VBQPPL dưới luật, kịp thời phát hiện, xử lý nhiều văn bản trái pháp luật hoặc không còn phù hợp, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tiếp tục được đẩy mạnh với nhiều hình thức sáng tạo, làm lan tỏa tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong xã hội. Các lĩnh vực quản lý khác như bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hộ tịch, quốc tịch, thi hành án dân sự… cũng đạt kết quả tích cực, đóng góp vào mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Đáng chú ý, năm 2024, kết quả thi hành án dân sự về việc và về tiền đạt mức cao nhất từ trước đến nay, đặc biệt là thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế. Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm trực tuyến đạt tỷ lệ 87% hồ sơ xử lý online và đã được vinh danh “Cơ quan nhà nước chuyển đổi số xuất sắc” năm 2024. Những thành quả này cho thấy sự nỗ lực to lớn của Bộ, ngành Tư pháp trong suốt chặng đường 80 năm và đặc biệt trong 5 năm qua, góp phần kiến tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công cuộc đổi mới.

Thách thức

Mặc dù đạt nhiều thành tựu, công tác xây dựng pháp luật giai đoạn 2020–2025 vẫn đứng trước không ít thách thức cần vượt qua. Trước hết, hệ thống pháp luật còn bộc lộ những hạn chế về chất lượng và tính kịp thời. Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế hóa đầy đủ, kịp thời; có những luật mới ban hành đã sớm phải sửa đổi, do tính dự báo và khả thi chưa cao. Tình trạng quy định pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn vẫn tồn tại, gây lúng túng trong thi hành, thậm chí dẫn đến thất thoát, lãng phí nguồn lực. Sự phối hợp giữa các cơ quan trong quy trình lập pháp đôi khi chưa chặt chẽ. Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn từng nêu thực tế một số dự luật cơ quan soạn thảo chỉ đáp ứng được 50-60% yêu cầu rồi chuyển sang Quốc hội, khiến khâu thẩm tra, chỉnh lý rất vất vả; nhiều lần ông phải nhắc nhở các bộ trưởng, trưởng ngành phải chịu trách nhiệm đến cùng trong xây dựng luật, không thể khoán trắng cho cấp dưới. Điều này cho thấy ở một số nơi, trách nhiệm người đứng đầu trong công tác lập pháp chưa được phát huy đầy đủ, dẫn tới dự thảo luật chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng.

Bên cạnh đó, khối lượng nhiệm vụ lập pháp từ nay đến 2025 còn rất nặng nề, đòi hỏi tốc độ và quyết tâm cao. Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật (do đồng chí Tô Lâm làm Trưởng ban) sau rà soát đã xác định 47 luật cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới, trong đó đề nghị bổ sung ngay 25 luật vào Chương trình lập pháp năm 2025 để kịp tháo gỡ các vướng mắc pháp lý hiện hành.

Thời gian từ nay đến cuối năm 2025 không còn nhiều, trong khi khối lượng công việc hoàn thiện thể chế rất lớn, tính chất rất khó, rất nhạy cảm, đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc của các cơ quan liên quan. Việc nghiên cứu, xây dựng khung pháp lý cho các lĩnh vực mới nổi như chuyển đổi số, kinh tế số, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi xanh... cũng là bài toán cấp bách đặt ra, để pháp luật không bị tụt hậu so với sự phát triển nhanh chóng của đời sống kinh tế – xã hội.

Đặc biệt, nguy cơ “lợi ích nhóm” chi phối chính sách, pháp luật là thách thức lớn cần kiên quyết ngăn chặn. Tổng Bí thư Tô Lâm đã thẳng thắn chỉ rõ dấu hiệu bị tác động bởi lợi ích cục bộ trong quá trình xây dựng, thẩm định văn bản pháp luật “đáng lo ngại, gây thiệt hại, thậm chí tạo khúc quanh kìm hãm phát triển”. Tổng Bí thư yêu cầu tuyệt đối không để xảy ra lợi ích nhóm trong xây dựng luật; các cơ quan phải đánh giá tác động chính sách một cách thực chất, lắng nghe ý kiến của đối tượng chịu tác động, không “đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp” thông qua thiết kế quy định có lợi cho một số ít. Đây là thông điệp rất mạnh mẽ nhằm đảm bảo tính công minh, vì lợi ích chung của pháp luật.

Cùng với đó, hạn chế về năng lực phân tích, phản ứng chính sách kịp thời cũng lộ diện – hiện chưa có cơ chế thật hữu hiệu để nhanh chóng nhận diện các bất cập pháp luật nảy sinh trong thực tiễn và tiến hành sửa đổi, bổ sung kịp thời. Công tác tổ chức thi hành pháp luật vẫn là khâu yếu: nhiều quy định chưa đi vào cuộc sống do thiếu hướng dẫn hoặc thiếu chế tài thực thi nghiêm minh. Tất cả những thách thức này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa quy trình và phương thức xây dựng pháp luật trong thời gian tới.

Đề xuất

Để phát huy vai trò then chốt của Bộ Tư pháp và nâng cao chất lượng công tác thẩm định luật, cần triển khai đồng bộ một số giải pháp chiến lược.

Trước hết, phải đề cao trách nhiệm của cơ quan soạn thảo – cụ thể là từng bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ – trong toàn bộ quy trình lập pháp. Như Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã nhấn mạnh, cơ quan trình dự án luật phải chịu trách nhiệm đến cùng đối với dự thảo luật do mình soạn thảo. Điều này đòi hỏi người đứng đầu bộ, ngành trực tiếp chỉ đạo và tham gia sâu vào quá trình soạn thảo, không phó mặc cho cấp dưới.

Thực tế cho thấy, khi Bộ trưởng quan tâm sát sao, dự luật sẽ được chuẩn bị kỹ lưỡng hơn, phản ánh đúng chính sách đề ra và giảm gánh nặng chỉnh lý về sau. Do vậy, Chính phủ cần tiếp tục quán triệt tinh thần “một việc – một đầu mối chịu trách nhiệm” trong xây dựng pháp luật, coi đây là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các bộ, ngành.

Thứ hai, nâng cao chất lượng thẩm định của Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp cần tiếp tục phát huy vai trò “người gác cổng” về pháp lý bằng cách thẩm định chặt chẽ, khách quan, minh bạch các dự án luật, nghị định. Việc thẩm định không nên chỉ dừng ở rà soát kỹ thuật pháp luật, mà cần đi sâu đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp, sự thống nhất của dự thảo trong tổng thể hệ thống pháp luật, cũng như tính khả thi, chi phí tuân thủ và tác động xã hội của chính sách. Bộ Tư pháp nên tăng cường huy động các chuyên gia, nhà khoa học, luật gia có uy tín tham gia các Hội đồng thẩm định những dự luật quan trọng, như chỉ đạo của Tổng Bí thư: “Huy động sự tham gia rộng rãi, thực chất của các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành... vào quá trình hoàn thiện pháp luật”.

Song song, cần áp dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ phân tích, đối chiếu quy định, rút ngắn thời gian thẩm định nhưng vẫn đảm bảo chất lượng. Quy trình thẩm định cũng phải công khai hơn – ví dụ, có thể công bố báo cáo thẩm định tóm tắt để dư luận, giới chuyên gia biết và đóng góp thêm ý kiến hoàn thiện dự luật.

Thứ ba, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Chính phủ và Quốc hội trong quy trình lập pháp. Luật Ban hành VBQPPL năm 2025 đã đặt nền tảng cho sự phối hợp này bằng việc quy định rõ: cơ quan trình (Chính phủ) chủ trì, phối hợp với cơ quan thẩm tra của Quốc hội để tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo luật cho đến khi thông qua. Để quy định đi vào cuộc sống, cần có quy chế phối hợp cụ thể giữa Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp với Ủy ban Pháp luật và các Ủy ban thẩm tra khác của Quốc hội. Mọi ý kiến của đại biểu Quốc hội, cơ quan thẩm tra phải được cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu nghiêm túc và phúc đáp rõ ràng.

Quá trình chỉnh lý tại Quốc hội cần có sự tham gia thường xuyên của đại diện cơ quan soạn thảo để bảo đảm ý chí của cơ quan trình được giải trình đầy đủ, giữ được những chính sách hợp lý, đồng thời tiếp thu tối đa các ý kiến xác đáng để hoàn thiện dự luật. Việc phối hợp nhuần nhuyễn này sẽ giúp “bảo đảm tính liên tục trong suốt quá trình xây dựng dự án luật, từ khâu đề xuất, soạn thảo đến khâu chỉnh lý” như mục tiêu đặt ra.

Thứ tư, chống “lợi ích nhóm” và tăng cường minh bạch trong làm luật. Đây là yếu tố sống còn để có được những đạo luật công bằng, hợp lòng dân. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ đạo: phải dứt khoát ngăn chặn mọi hành vi cài cắm lợi ích cục bộ trong soạn thảo, thẩm định văn bản pháp luật. Muốn vậy, cần hoàn thiện các thiết chế kiểm soát: nâng cao hiệu quả phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể đối với dự thảo luật; mở rộng phạm vi lấy ý kiến công khai, đặc biệt là ý kiến đối tượng chịu sự tác động của luật. Mỗi chính sách quan trọng nên được tham vấn nhiều chiều trước khi đưa vào dự thảo chính thức.

Đồng thời, trách nhiệm giải trình của cơ quan soạn thảo phải được thực hiện nghiêm túc ở tất cả các khâu: giải trình với Hội đồng thẩm định của Bộ Tư pháp, giải trình với Ủy ban thẩm tra của Quốc hội, và tiếp thu, giải trình đến từng ý kiến đại biểu trong quá trình chỉnh lý. Bất kỳ đề xuất nào thêm bớt vào dự thảo luật cũng cần có lý do xác đáng, dựa trên lợi ích chung. Những trường hợp cố tình cài cắm quy định có lợi cho nhóm riêng, gây thiệt hại lợi ích xã hội, nếu phát hiện phải bị xử lý, truy trách nhiệm rõ ràng.

Cuối cùng, cần nâng cao năng lực đội ngũ làm công tác xây dựng pháp luật. Bộ Tư pháp đã đề ra yêu cầu phát triển nguồn nhân lực pháp chế “vừa hồng vừa chuyên”, có bản lĩnh và tinh thông nghiệp vụ. Trong thời gian tới, nên tiếp tục rà soát, sắp xếp đội ngũ cán bộ pháp chế ở các bộ, ngành, địa phương, tránh tình trạng thiếu hoặc yếu về chuyên môn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với thực tiễn, cập nhật kiến thức về các lĩnh vực mới, kỹ năng lập pháp hiện đại.

Cần có cơ chế thu hút nhân tài – như các chuyên gia luật, các nhà quản lý giỏi – tham gia vào quá trình soạn thảo luật quan trọng, có thể dưới dạng chuyên gia tư vấn hay thành viên ban soạn thảo độc lập. Như Tổng Bí thư gợi mở, phải hình thành cơ chế đột phá thu hút người tài trong và ngoài nước đóng góp cho công tác xây dựng pháp luật. Song song đó, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong xây dựng pháp luật: người đứng đầu cơ quan nào để chậm, để sai trong nhiệm vụ lập pháp được giao phải chịu trách nhiệm tương xứng. Có như vậy, chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm mới được thực hiện đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng.

Kết luận

Chặng đường 80 năm của ngành Tư pháp nói chung và giai đoạn 2020–2025 nói riêng đã khẳng định vai trò then chốt của Bộ Tư pháp trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bộ Tư pháp vừa là “nhạc trưởng” điều phối công tác xây dựng thể chế, vừa là “người gác cổng” đảm bảo cho mỗi đạo luật, chính sách được ban hành đều hợp hiến, hợp pháp, khả thi và vì lợi ích chung. Những kết quả nổi bật trong thẩm định các dự án luật nhiệm kỳ qua đã góp phần quan trọng đưa hệ thống pháp luật nước ta tiệm cận các chuẩn mực tốt, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Trong bối cảnh nhiệm vụ lập pháp phía trước còn rất nặng nề, quyết tâm chính trị cao cần được giữ vững. Tổng Bí thư Tô Lâm đã kêu gọi toàn hệ thống cùng nhau “phát huy trí tuệ, tâm huyết, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao; dám nghĩ, dám làm, dám quyết để kiến tạo nên những đột phá thể chế, vì một nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, vì cuộc sống của Nhân dân”. Thấm nhuần lời hiệu triệu đó, Bộ Tư pháp và các cơ quan trong Chính phủ, Quốc hội cần tiếp tục đồng lòng, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa từ tư duy đến hành động, đưa công tác lập pháp nước ta “đột phá của đột phá”. Với sự chỉ đạo sát sao của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ và giám sát chặt chẽ của Quốc hội, tin tưởng rằng công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật sẽ có những bước tiến vượt bậc, tạo nền tảng thể chế vững chắc cho công cuộc phát triển đất nước nhanh và bền vững trong những năm tới.

TS Trần Văn Khải,

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/bo-tu-phap-tru-cot-tham-dinh-thao-go-diem-nghen-ve-the-che.html