Bóng cờ

HNN.VN - 'Hỡi những ai máu đỏ da vàng/Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc/Nền cờ thắm máu đào vì nước/Sao vàng tươi, da của giống nòi'. Đó là những câu thơ của Nguyễn Hữu Tiến, người thiết kế lá cờ đỏ sao vàng vào khoảng năm 1940.

Kỳ đài Huế. Ảnh: Đình Hoàng

Kỳ đài Huế. Ảnh: Đình Hoàng

Bao nhiêu năm qua, cờ đỏ sao vàng là một biểu tượng thiêng liêng gắn liền với cách mạng, với độc lập dân tộc. Dưới bóng cờ tung bay trên đỉnh Phu Văn Lâu, nghe như đang vang vọng tiếng gọi thiêng liêng của lịch sử, của những mùa đấu tranh rực lửa và niềm tự hào trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước hôm nay.

Kỳ đài Huế và các sự kiện lịch sử trọng đại

Lâu nay, lá cờ cách mạng xuất hiện ở Kỳ đài Phu Văn Lâu thường gắn liền với ba sự kiện chính được nhắc đến: Cách mạng Tháng Tám 1945, Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy năm 1968, Ngày Huế Giải phóng 25/3/1975.

Trong những ngày Cách mạng tháng Tám, 9h sáng ngày 21/8/1945, lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên Kỳ đài trước cổng Ngọ Môn thay cho cờ quẻ ly của triều đình Nhà Nguyễn, sự kiện ấy làm nức lòng Nhân dân Huế. Ông Đặng Văn Việt và ông Nguyễn Thế Lương là hai người thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng treo cờ Tổ quốc trên kỳ đài ngày ấy. Ngày 30/8/1945, dưới bóng cờ cách mạng, tại Ngọ Môn, vua Bảo Đại đã đọc chiếu thoái vị và trao ấn kiếm cho đại diện của Chính phủ Cách mạng lâm thời, đánh dấu sự chấm dứt của chế độ phong kiến nhà Nguyễn và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trong cuộc Tổng tấn công nổi dậy mùa Xuân 1968, thực hiện chính sách đại đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, nhất là ở các đô thị, Đảng chủ trương thành lập Liên minh các Lực lượng dân chủ và hòa bình, có lá cờ riêng gồm 3 màu đỏ, xanh và ngôi sao vàng. Thành ủy Huế giao cho huyện Hương Trà đảm nhiệm việc may cờ. Các cơ sở ở Huế bí mật chuyển các loại vải màu lên hậu cứ để may lá cờ rộng 96m2. Chỉ huy chiến dịch Mặt trận Huế giao cho Trung đoàn 6, đơn vị đánh vào Thành nội Huế, có nhiệm vụ treo cờ. Cờ được treo trên Kỳ đài Huế vào sáng 31/1/1968. Cờ cách mạng phấp phới tung bay, là niềm tự hào, kiêu hãnh của quân dân Mặt trận Huế, đã chiếm giữ Huế suốt 26 ngày đêm.

Rồi đến trưa ngày 25/3/1975, lá cờ Giải phóng tung bay trên đỉnh Kỳ đài Phu Văn Lâu, báo hiệu thành phố Huế vừa được giải phóng. Lá cờ bay trong trời xanh lộng gió và trong ca khúc khải hoàn “Nắng Tháng Ba” của nhạc sĩ Trần Hoàn: “Nắng đẹp vô cùng ơi nắng tháng Ba/ Nắng đẹp vô cùng thành Huế mình từ nay sạch bóng ngoại xâm/ Và lá cờ hồng tươi vờn bay trên phố phường…”.

Cờ cách mạng trong phong trào đô thị

Khi xuất hiện giữa lòng thành phố Huế, nơi biểu tượng chính trị là cờ vàng của chính quyền Sài Gòn cũ, thì lá cờ cách mạng không chỉ đơn thuần là một lá cờ, mà là sự phủ định trực tiếp của chính quyền hiện hữu. Ở Huế, không chỉ ba lần cờ cách mạng xuất hiện trong ba sự kiện trong đại nói trên, mà còn trong nhiều sự kiện khác.

Trong thực tế, cờ cách mạng xuất hiện ở Huế từ rất sớm. Sau khi thành lập Thị ủy Thuận Hóa vào tháng 4/1930, Thị ủy ngay lập tức thông qua kế hoạch kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động ở Huế, với nội dung chính là biểu dương lực lượng. Sách Lịch sử Đảng bộ thành phố Huế (1930 - 2000) ghi nhận lần đầu tiên cờ Đảng Cộng sản Việt Nam xuất hiện công khai đúng vào dịp kỷ niệm ngày 1/5/1930 ở nhiều địa điểm như tại đình làng An Cựu, Sở Bang tá trước Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, dọc đường Paul Bert (đường Trần Hưng Đạo), đường Gia Long (Phan Đăng Lưu), tại Đài chiến sĩ trận vong (trước Trường Quốc Học), đồn San - đá, đồn Mang Cá, Nhà Đèn, cửa Thượng Tứ, cửa An Hòa, trên đỉnh núi Ngự Bình... Thực chất đây là cuộc vận động các tầng lớp nhân dân với số lượng đông đảo, khí thế rầm rộ; tinh thần phấn khởi ủng hộ Đảng của Nhân dân ở ngay sát nách triều đình khiến thực dân Pháp và triều đình phong kiến lúng túng, lo sợ.

Trong kháng chiến chống Pháp, Sách “Biên niên lịch sử công an nhân dân” ghi nhận, tháng 3/1950, một tổ công an xung phong đã dũng cảm, mưu trí tiến vào cột cờ Phu Văn Lâu, hạ cờ quẻ ly và kéo cờ đỏ sao vàng lên trên đình, khiến cho quần chúng hân hoan và kẻ thù ngạc nhiên, khiếp sợ.

Trong phong trào đô thị Huế, tại cửa Thượng Tứ, ngày 1/5/1964, lực lượng học sinh sinh viên yêu nước đã giương cao lá cờ Mặt trận giải phóng miền Nam trong một cuộc xuống đường...

Những ngày thường hôm nay

Để lá cờ luôn tung bay, đỏ thắm trên nền trời xanh, có những con người thường xuyên may cờ và treo cờ. Bà Hạnh, thợ may ở chợ Đông Ba đã có gần 20 năm đảm nhận công việc may cờ ở Kỳ đài Huế. Lá cờ có chiều dài 12m, chiều rộng 8m, ngôi sao vàng cao đến 4m, tổng cộng hết khoảng trên 130m2 vải. Mỗi lần may cờ, bà Hạnh phải mượn hội trường để căng vải, rồi dùng kim lược tay lá sao để áp vào cho chuẩn, công việc phải mất 2 ngày đêm. Cái khó nhất của việc may cờ treo ở Kỳ đài là việc cắt, may ngôi sao vào lá cờ sao cho cân xứng. Nếu cánh sao bị lệch tâm với lá cờ sẽ không thể hiện được ý nghĩa của Quốc kỳ. Chính vì vậy, bà Hạnh đích thân làm các công đoạn, không nhờ người khác.

Treo cờ lên cột cờ Phu Văn Lâu không phải là việc dễ làm. Hiện có hai người được giao nhiệm vụ là anh Lê Tiến Sĩ và anh Trần Thạch Cương. Anh Lê Tiến Sĩ trước là bộ đội thuộc Quân chủng Phòng không không quân, năm 1997, anh được nhận vào làm việc tại tổ bảo vệ Kỳ đài thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế. Anh Trần Thạch Cương được đơn vị giao nhiệm vụ treo và hạ cờ trên kỳ đài Huế đến nay đúng 25 năm. Năm 2000, ngày đầu tiên nhận việc, tổ trưởng dẫn anh đến chân Kỳ đài, chỉ lên cột cờ dặn: “Cột cờ có 3 tầng lan can. Ngày đầu, cứ leo lên lan can thứ nhất, ngày thứ hai leo tiếp lan can thứ hai, ngày thứ ba leo lên lan can cuối cùng”. Nhưng hôm đó, anh Cương đã leo tuốt một mạch lên đỉnh cột cờ.

Lá cờ tung bay trong gió, là nhịp đập tự hào về Tổ quốc yêu thương đang phát triển từng ngày giữa trời đất Cố đô.

Đặng Ngọc Nguyên

Nguồn Thừa Thiên Huế: https://huengaynay.vn/chinh-tri-xa-hoi/bong-co-157199.html