Bước ngoặt trong chính sách dân tộc gắn với cách mạng công nghệ
Phong trào 'Bình dân học vụ số' được coi là giải pháp trọng tâm để nâng cao năng lực số cho đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), góp phần hiện thực hóa mục tiêu 'không để ai bị bỏ lại phía sau' trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Xóa mù số là mệnh lệnh của thời đại chuyển đổi số
Báo cáo Chỉ số kỹ năng số Việt Nam 2023 cho thấy, vẫn còn gần 60% người dân ở vùng DTTS và miền núi chưa từng tiếp cận dịch vụ công trực tuyến. Trong khi đó, các dịch vụ y tế, giáo dục, nông nghiệp... ngày càng vận hành qua nền tảng số. Tình trạng này tạo nên một khoảng cách số ngày càng lớn, dẫn đến bất bình đẳng mới - bất bình đẳng trong tiếp cận thông tin và cơ hội phát triển.
Nhằm xóa mù công nghệ, phổ cập tri thức số đến mọi người dân, đặc biệt là vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo, phong trào “Bình dân học vụ số” đã được hình thành. Đây không chỉ là một sáng kiến về giáo dục mà là một phong trào chính trị - xã hội sâu sắc, đánh dấu một bước ngoặt trong chính sách dân tộc gắn với cách mạng công nghệ.
Theo Kế hoạch số 01-KH/BCĐTW ngày 21/4/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương, phong trào “Bình dân học vụ số” hướng tới một số mục tiêu, trong đó nổi bật là: Đến năm 2027, 100% xã đặc biệt khó khăn có tổ chuyển đổi số cộng đồng hoạt động hiệu quả; Ít nhất 80% người dân vùng dân tộc thiểu số có kỹ năng số cơ bản; Hình thành lực lượng “hướng dẫn viên số cộng đồng” từ cán bộ xã, thôn bản, người có uy tín, thanh niên tình nguyện.
Phong trào “Bình dân học vụ số” không nhằm thay thế giáo dục phổ thông hay các chương trình kỹ thuật số cao cấp, mà tập trung vào giáo dục cộng đồng, đào tạo những kỹ năng ứng dụng công nghệ thiết yếu trong cuộc sống như: thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ công trực tuyến, tiếp cận y tế số, học online, quảng bá sản phẩm nông sản trên mạng xã hội...

Chị Nguyễn Kim Phương, chủ của Tày’s Homestay ở Làng đá Khuổi Ky (huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) rất thành thạo việc dùng điện thoại để “chốt khách” đặt phòng. Ảnh: Bình Minh
Dù chủ trương đúng đắn, thực tiễn triển khai phong trào này đang đối mặt nhiều thách thức.
Một là, hạ tầng số chưa phủ sóng sâu rộng. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, đến cuối năm 2024, vẫn còn hơn 3.000 thôn bản vùng sâu chưa có Internet cáp quang, đặc biệt ở Lai Châu, Kon Tum, Đắk Nông.
Hai là, thiếu thiết bị thông minh. Số liệu từ Ủy ban Dân tộc cho thấy, 40% hộ nghèo vùng DTTS chưa có thiết bị kết nối mạng.
Ba là, khoảng cách nhận thức công nghệ còn khá sâu rộng, đặc biệt với đồng bào lớn tuổi, người DTTS không sử dụng tiếng phổ thông thành thạo.
Đề xuất chính sách gắn với phong trào “Bình dân học vụ số”
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và xu thế chuyển đổi số toàn cầu, việc phát triển hạ tầng số và nâng cao kỹ năng số cho người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS và miền núi, trở thành nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách số, bảo tồn văn hóa và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Nhằm góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển công bằng, bền vững vùng DTTS và miền núi trong kỷ nguyên số, cần ưu tiên và tập trung triển khai một số nhóm nội dung sau.
Thứ nhất, tăng cường đầu tư hạ tầng số ưu tiên vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Ưu tiên nguồn vốn đầu tư xây dựng mạng lưới số: Để thu hẹp khoảng cách số giữa các vùng, cần ưu tiên phân bổ ngân sách nhà nước, nguồn viện trợ quốc tế và quỹ phát triển công nghệ số cho việc đầu tư xây dựng hạ tầng số tại các vùng DTTS và miền núi.
Trong đó tập trung: Phát triển mạng Internet cáp quang phủ đến các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa; Đẩy mạnh phủ sóng công nghệ di động thế hệ mới 4G và 5G để đảm bảo đường truyền Internet ổn định, tốc độ cao; Áp dụng công nghệ truyền dẫn hiện đại như vệ tinh, wi-fi cộng đồng để mở rộng vùng phủ sóng tới từng hộ gia đình, từng cá nhân.
Cơ chế ưu đãi và cam kết của doanh nghiệp viễn thông: Chính phủ cần ban hành chính sách ưu đãi thuế, giảm phí, hỗ trợ mặt bằng, thủ tục đầu tư cho các doanh nghiệp viễn thông thực hiện dự án phủ sóng vùng DTTS. Đồng thời, xây dựng cơ chế ràng buộc cam kết cung cấp dịch vụ ổn định, bền vững và giá cước phù hợp với điều kiện kinh tế của đồng bào.
Giám sát chất lượng và bảo trì hạ tầng: Thành lập các tổ giám sát độc lập gồm cán bộ địa phương, đại diện bộ quản lý chuyên ngành, chuyên gia kỹ thuật để theo dõi, đánh giá chất lượng mạng tại các vùng triển khai; Có cơ chế xử lý nhanh các sự cố, bảo trì thiết bị, đảm bảo hạ tầng vận hành liên tục, đáp ứng nhu cầu người dân.
Cần biến phong trào “Bình dân học vụ số” thành cuộc vận động chính trị – văn hóa sâu rộng, phát động thi đua ở các cấp, lồng ghép vào chương trình dân vận, xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo đa chiều, xây dựng Đảng ở cơ sở.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực số bản địa.
Đào tạo cán bộ xã, người có uy tín, thanh niên tình nguyện biết tiếng dân tộc, sử dụng thành thạo công nghệ làm “gia sư số”, “giáo viên số bản địa. Xây dựng các chương trình đào tạo kỹ năng số phù hợp cho lực lượng này để họ trở thành nhân tố nòng cốt truyền đạt kiến thức kỹ thuật số cho cộng đồng.
Tích hợp tiếng dân tộc vào chương trình đào tạo: Để bảo đảm người dân DTTS tiếp thu hiệu quả, cần biên soạn tài liệu, nội dung đào tạo song ngữ hoặc đa ngôn ngữ, trong đó chú trọng sử dụng tiếng dân tộc bản địa, đồng thời xây dựng video, hình ảnh minh họa trực quan, sinh động, giảm thiểu rào cản ngôn ngữ và kỹ thuật.
Chính sách đãi ngộ và khuyến khích: Cần có cơ chế hỗ trợ tài chính, khen thưởng, tạo điều kiện nâng cao trình độ, đào tạo bồi dưỡng liên tục cho đội ngũ “gia sư số” nhằm duy trì động lực và nâng cao hiệu quả hoạt động truyền dạy kỹ năng số tại cộng đồng.
Thứ ba, hỗ trợ thiết bị và phần mềm thân thiện với người DTTS.
Cung cấp thiết bị truy cập Internet giá rẻ, ưu đãi: Nhà nước phối hợp với doanh nghiệp để cung cấp thiết bị truy cập Internet phù hợp (điện thoại thông minh, máy tính bảng, USB 4G) với giá ưu đãi, hoặc miễn phí cho các hộ nghèo, hộ DTTS đặc biệt khó khăn. Kèm theo đó là các lớp hướng dẫn sử dụng đơn giản, dễ hiểu, bảo đảm người dân có thể khai thác hiệu quả các thiết bị này.
Phát triển ứng dụng số đa ngôn ngữ và thân thiện: Khuyến khích phát triển các ứng dụng phục vụ học tập trực tuyến, y tế từ xa, giao dịch hành chính, thương mại điện tử… có giao diện đơn giản, hỗ trợ đa ngôn ngữ, trong đó có tiếng các DTTS; sử dụng hình ảnh minh họa trực quan, tránh thuật ngữ chuyên ngành khó hiểu.
Ứng dụng công nghệ số phục vụ các nhu cầu thiết yếu: Thí điểm mô hình “sổ tay số bản địa” – app có giao diện đơn giản, ngôn ngữ dân tộc, kết nối với dịch vụ cơ bản. Phát triển các nền tảng hỗ trợ người dân DTTS tiếp cận thông tin, dịch vụ y tế, giáo dục, chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ pháp lý thông…, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống và giảm bớt sự phụ thuộc vào điều kiện vật lý tại vùng sâu, vùng xa.
Thứ tư, liên kết gắn kết “giáo dục số” với phát triển sinh kế.
Đào tạo kỹ năng số gắn với sinh kế truyền thống: Phát triển các chương trình đào tạo kỹ năng số chuyên sâu hướng tới các lĩnh vực sinh kế chủ lực của đồng bào như nông nghiệp thông minh, chế biến thủ công mỹ nghệ, du lịch cộng đồng… nhằm giúp người dân nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm.
Hỗ trợ bán hàng trực tuyến, marketing số: Xây dựng các chương trình hỗ trợ kỹ thuật số trong quản lý bán hàng, quảng bá sản phẩm trên các nền tảng thương mại điện tử, mạng xã hội, tạo điều kiện cho đồng bào mở rộng thị trường tiêu thụ, gia tăng thu nhập.
Kết nối doanh nghiệp và cộng đồng: Tăng cường phối hợp giữa các tổ chức chính quyền, doanh nghiệp, tổ chức xã hội để xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm số từ sản xuất đến tiêu thụ, hỗ trợ phát triển kinh tế số, đồng thời bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc trưng của các dân tộc.
Tóm lại, việc triển khai đồng bộ các chính sách nêu trên sẽ tạo tiền đề quan trọng để phong trào “Bình dân học vụ số” phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, nâng cao năng lực tiếp cận công nghệ của đồng bào DTTS và miền núi. Đây là bước đi quan trọng giúp giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo tồn bản sắc văn hóa và thu hẹp khoảng cách số trong cộng đồng dân cư.
“Bình dân học vụ số” không đơn thuần là một chương trình công nghệ, mà là một phong trào dân chủ – khai sáng – giải phóng tiềm năng tri thức trong thời đại mới. Xóa mù số hôm nay, cũng là gieo hạt giống của tri thức, của sự bình đẳng mới cho ngày mai – nơi không ai bị bỏ lại phía sau trong kỷ nguyên số.
Một số mô hình điển hình triển khai Kế hoạch 01/KH/BCĐTW
Lào Cai: Xây dựng tổ “gia sư số thôn bản” với hơn 120 thanh niên người Mông, Dao hướng dẫn người dân kê khai điện tử, dùng ví điện tử nhận hỗ trợ.
Trà Vinh: Mỗi xã Khmer có ít nhất 1 lớp “Xóa mù số cuối tuần”, có tình nguyện viên hướng dẫn bằng tiếng Khmer.
Gia Lai: Triển khai mô hình “một thầy một lớp học số cộng đồng” ở vùng Bahnar và Jrai, lồng ghép dạy kỹ năng với dạy chữ tiếng phổ thông.