Cà phê Hà Nội thuở ấy
Thời còn sơ tán đầu thập niên 70, chúng tôi lúc nào cũng thèm quà Hà Nội, mà đặc biệt là cà phê tối thứ bảy. Khu sơ tán lúc bấy giờ thực sự buồn tẻ. Mới hơn 7 giờ tối mà ngoài đường đã vắng bóng người qua lại. Từng đợt gió mùa Đông Bắc tràn về kéo theo mưa lạnh khiến nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm…
Đi ngoài ngõ chỉ thấy lẻ loi ánh đèn dầu hắt qua khe cửa càng làm tăng vẻ âm u, vắng lặng. Gió bên ngoài rít từng cơn, hắt những hạt mưa lạnh buốt khiến mấy anh em nghệ sĩ co rúm vào nhau trong căn nhà 5 gian ốp ván gỗ.
Ôn cố tri tân
Bữa ấy có lẽ là đợt rét nhất từ đầu mùa. Trong giá lạnh nơi núi đồi hoang sơ cũng có cái thú mà không phải ai cũng được hưởng. Lúc ấy chợt anh Trọng “Bẻm”, một nghệ sĩ kèn trong đoàn sơ tán bật dậy trèo lên giường, mở hòm quần áo lôi ra một bọc được buộc rất kĩ bằng giấy dầu. Là cà phê. Mọi người ồ cả lên vì thứ của quý giữa núi rừng, nhưng lại không có phin để pha.
Lúc ấy cậu Lê Duy đưa ra sáng kiến là lấy chiếc bít tất sạch để thay cho phin. Tìm được đôi tất Đông Xuân còn mới nguyên, chúng tôi gỡ lấy đoạn dây thép mềm dưới đáy cái đó dùng để bắt cá rồi lồng vừa đủ đường kính cổ tất, sau đó xoắn 2-3 vòng để làm tay cầm, kiểu như cái lưới vợt cá. Đoạn lại lấy ra chiếc ấm tích vẫn pha nước vối đã rửa sạch rồi cho bít tất vào. Lê Duy cười khoái trá: Đây là “cà phê bít tất” mà các quán Sài Gòn vẫn pha cho khách. Xong lấy thìa xúc cà phê cho vào 2/3 bít tất rồi đổ nước sôi, đậy lại.
Cà phê đựng trong bít tất nằm lưng chừng ấm tích. Từng giọt, từng giọt ngấm qua, chảy xuống, tỏa mùi thơm nồng ấm khắp nhà. Chừng vài phút sau thì cà phê được đổ ra một cái ca nhôm, mùi của nó khiến ai nấy không kìm nổi cơn thèm. Thấy mọi người sốt ruột định đổ ra chén, Lê Duy vội ngăn lại: “Đây mới là nước thứ nhất, vẫn còn nhiều bã ra theo. Phải lọc lần 2, lần 3, chứ có phải pha theo phin đâu mà dùng ngay được. Cứ bình tĩnh, chầm chậm mới thưởng thức hết hương vị của “cà phê bít tất”.
Cà phê được rót ra 4 tách đặc sánh tỏa hương, lại bỏ thêm chút đường hoa mai. Lúc ấy, qua trùng trùng lớp lớp núi rừng thâm u, qua những tán cây bạch đàn lạnh buốt, tôi bỗng nhớ quá cà phê Hà Nội. Lúc còn chưa sơ tán, tôi đã “nhẵn mặt” ở cà phê Giảng (phố Hàng Gai), cà phê Nhân (phố Cầu Gỗ), cà phê Lâm “toét” (phố Nguyễn Hữu Huân), cà phê Mô Ca (phố Bùi Thị Xuân) và đặc biệt là cà phê Hói (phố Bà Triệu).
Chuyện nhỏ khó quên
Cà phê Hói có nhiều giai thoại mà cho đến giờ tôi vẫn nhớ. Trước khi mở quán cà phê tại nhà trên phố Bà Triệu, ông chủ quán Hói nấu ăn cho một lãnh sự quán nước ngoài. Không biển hiệu, cửa lúc nào cũng đóng im ỉm, trừ một lối đi vừa đủ một người ra vào, nhưng trong nhà, ngoài sân từ sáng sớm đã đông nghịt kẻ đứng, người ngồi. Ở vào thời kỳ Nhà nước còn bao cấp, người dân sống bằng tem phiếu, những thực khách buổi sáng tìm đến các quán “cà phê chui” đều là dân nghiền chính hiệu. Chính vì thế mà cà phê “Hói” có những khách hàng trung thành tới 30-40 năm.
Tôi cũng là một trong số khách hàng quen thường lui tới quán vào những năm 1969-1970. Phải công nhận cà phê do ông pha chế có bí quyết riêng, thơm nồng mà quyến rũ lạ thường. Một điều đặc biệt nữa là trong suốt mấy chục năm, chất lượng cà phê không bao giờ thay đổi. Tách đựng của ông cũng khác, thửa riêng một loại to bằng chén đựng nước chấm. Đông cũng như hè, tách cà phê đều được đặt trong chiếc bát ăn cơm, rồi tưới nước sôi gần ngập, song lại tỉa thêm chút váng bơ béo ngậy trên bề mặt đen nhánh.
Chiếc bàn trước mặt ông lúc nào cũng lỉnh kỉnh hàng chục chiếc phin pha cà phê được ông cải biên bằng loại cặp lồng nhôm. Cà phê của ông vừa đặc, vừa sánh, vì thế những tay khách quen không tài nào mà rời đi nơi khác được. Thêm nữa là ông chỉ kinh doanh một loại cà phê đen nóng và dứt khoát bán đến 10h là nghỉ, khách đến muộn có năn nỉ cũng không phục vụ. Khách nghiền cà phê đã quá quen với tính cách của vị chủ quán này, nên chớ có dại mà giục ông. Cứ đợi đấy đã.
Chủ quán dáng người to béo, đầu hói nhẵn, mặt lúc nào cũng lầm lì, rất hiếm khi bắt được nụ cười. Người hay phải gánh chịu những bực tức từ “gã chủ quán kỳ dị và chảnh chọe” này là bà vợ. Nhiều khách hàng quen gọi là bà Na Nông. Cho đến giờ, đã nửa thế kỷ trôi qua mà hình ảnh người phụ nữ ấy vẫn hiện rõ trong trí nhớ tôi. Một phụ nữ khoảng ngoài 60 tuổi, hiền lành, chiếc tạp dề quấn quanh bụng, luôn chân luôn tay mà vẫn bị ông chồng gắt gỏng mỗi khi trái ý. Sự nhẫn nhịn của bà phi thường đến nỗi từng ấy năm chưa bao giờ tôi thấy bà mảy may phản ứng lại chồng.
Bảo tàng thu nhỏ
Hà Nội cũng còn mấy quán cà phê nổi tiếng được nhiều người biết tới, nhất là trong giới hội họa. Ấy là cà phê Lâm “toét” ở phố Nguyễn Hữu Huân. Cà phê Lâm không chỉ nổi tiếng về chất lượng thơm ngon, quyến rũ mà còn là nơi thường xuyên lui tới của cánh họa sĩ tên tuổi lúc bấy giờ.
Khách hàng yêu thích hội họa vừa nhâm nhi cà phê, vừa được thưởng thức các tác phẩm treo khắp quán với đủ thể loại: Sơn dầu, lụa, cắt dán, sơn mài, thuốc nước… của nhiều tác giả Việt Nam từ thời trước Cách mạng. Giờ thì ông Lâm đã về nơi thiên cổ và để lại hầu hết những tác phẩm hội họa có giá trị mà ông đã dày công sưu tầm. Có một đận giáp Tết Nguyên đán, tôi gặp được anh con trai cả ông Lâm đang tiếp bước cha điều hành quán cà phê 60 phố Nguyễn Hữu Huân. Anh cũng xác nhận rằng cha mình rất đam mê hội họa, và cho dù không phải họa sĩ nhưng ông Lâm xem tranh, bình tranh chính xác và am hiểu đến nỗi các họa sĩ tên tuổi lúc bấy giờ đều nể phục, quý mến.
Trước năm 1954, gia đình ông Lâm từng mở một quán cà phê ở 32 Hàng Vôi. Thời kỳ này tôi còn nhỏ, nhưng đã được nghe kể lại rằng, các buổi sáng, họa sĩ Phan Chánh thường đi xích lô đến quán uống cà phê, rồi 2 ông quen nhau. Ông Lâm và họa sĩ Phan Chánh nói chuyện rất nhiều về hội họa.
Ông cũng được chứng kiến họa sĩ ký họa nhiều bức vẽ và sau đó tặng lại cho chính chủ quán. Đến khi chuyển về 60 Nguyễn Hữu Huân, quán cà phê của ông lại đón tiếp rất nhiều họa sĩ nổi tiếng như Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, trong đó có cụ Lam Sơn thường lui tới trao đổi nhiều tác phẩm của các họa sĩ trường Mỹ thuật Đông Dương…
Những bức tranh sưu tầm của ông Lâm cũng từng được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam mua lại hoặc cử người đến sao chép để lưu giữ hay mượn để đem tham dự các cuộc triển lãm hội họa trong và ngoài nước. Ngoài đam mê hội họa, ông còn thú sưu tầm cổ vật men sứ đời Nguyên, Minh, Càn Long, Khang Hy… và các chủng loại cổ vật Việt Nam qua các triều đại. Ở Hà Nội, đến một ông chủ quán cà phê còn nghệ sĩ đến như vậy thì bảo sao cà phê không tinh tế, quyến rũ cả những vị khách phố cổ khó tính nhất.
Nguồn ANTĐ: https://anninhthudo.vn/ca-phe-ha-noi-thuo-ay-post463893.antd