Các dự án FDI đã giải ngân 314,5 tỷ USD, tương đương 64% vốn đăng ký
Tính đến ngày 30/9, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đạt hơn 24,78 tỷ USD, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng hơn 17,3 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2023.
Hơn 13,5 tỷ USD vốn đăng ký mới trong 9 tháng
Cập nhật những số liệu trên, lãnh đạo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, trong tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký 9 tháng qua, ngoài góp vốn mua cổ phần giảm thì đầu tư mới và điều chỉnh vốn tăng so với cùng kỳ. Kết quả cụ thể có 2.492 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (giảm 4,3% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký đạt hơn 13,55 tỷ USD (tăng 11,3% so với cùng kỳ).
Có 1.027 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (tăng 7,3% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt hơn 7,64 tỷ USD (tăng 48,1% so với cùng kỳ). Có 2.471 giao dịch góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN (giảm 6,5% so với cùng kỳ), tổng giá trị vốn góp đạt gần 3,59 tỷ USD (giảm 26,2% so với cùng kỳ).
Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt gần 15,64 tỷ USD, chiếm gần 63,1% tổng vốn đầu tư đăng ký, giảm nhẹ 0,4% so với cùng kỳ.
Ngành kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư hơn 4,38 tỷ USD, chiếm gần 17,7% tổng vốn đầu tư đăng ký, gấp hơn 2,2 lần cùng kỳ. Tiếp theo lần lượt là các ngành sản xuất, phân phối điện; bán buôn bán lẻ với tổng vốn đăng ký đạt lần lượt gần 1,12 tỷ USD và hơn 920 triệu USD.
Xét về số lượng dự án, bán buôn, bán lẻ là ngành dẫn đầu về số dự án mới (chiếm 35%) và số lượt giao dịch góp vốn mua cổ phần (chiếm 41,7%). Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu về số lượt giao dịch góp vốn mua cổ phần cao nhất (chiếm 66,8%).
Xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) ước đạt hơn 217,4 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ, chiếm 72,1% kim ngạch xuất khẩu. Nếu không kể dầu thô, xuất khẩu của khu vực này ước đạt hơn gần 216 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ, chiếm tới 71,6% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Đồng thời, nhập khẩu của khu vực ĐTNN ước đạt gần 179,5 tỷ USD, tăng 17,5% so cùng kỳ và chiếm 63,7% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Tính chung trong 9 tháng năm 2024, khu vực ĐTNN xuất siêu gần 38 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu hơn 36,5 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu gần 18,2 tỷ USD.
Xuất khẩu của khu vực FDI là bệ đỡ vững chắc
Bình luận về kết quả trên, lãnh đạo Cục Đầu tư nước ngoài nêu rõ, 9 tháng năm 2024, cả vốn đầu tư thực hiện và tổng vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tăng so với cùng kỳ, với mức tăng lần lượt là 8,9% và 11,6%. Trong đó, đầu tư mới và điều chỉnh vốn tăng cả về giá trị và quy mô vốn đầu tư mới/tăng thêm.
Riêng tháng 9 năm 2024, tổng lượng vốn đầu tư mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần đạt mức cao nhất trong các tháng từ đầu năm đến nay, với gần 4,26 tỷ USD, chiếm 17,2% tổng vốn đầu tư cả nước trong 9 tháng. Vốn đầu tư tăng thêm cũng đạt mức cao nhất từ đầu năm với các dự án được mở rộng vốn lớn. Đáng chú ý nhất, có 03 dự án điều chỉnh vốn lớn từ hơn 200 triệu USD đến gần 1 tỷ USD, tổng vốn đầu tư tăng thêm của 03 dự án này đạt hơn 1,5 tỷ USD.
Vốn đầu tư tập trung nhiều vào các tỉnh, thành phố có nhiều lợi thế trong thu hút ĐTNN (cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực ổn định, nỗ lực cải cách thủ tục hành chính và năng động trong công tác xúc tiến đầu tư…) như Bắc Ninh, TP. Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bắc Giang, Ninh Thuận. Riêng 10 địa phương này đã 80,1% số dự án mới và 72,9% số vốn đầu tư của cả nước trong 9 tháng.
Các đối tác đầu tư lớn nhất trong 9 tháng năm đều là các đối tác truyền thống của Việt Nam và đến từ châu Á. Riêng 5 quốc gia và vùng lãnh thổ dẫn đầu (Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản) đã chiếm tới 73,2% số dự án đầu tư mới và 75,2% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước.
Nhiều dự án lớn ở các lĩnh vực bán dẫn, năng lượng (sản xuất pin, tế bào quang điện, thanh silic), sản xuất linh kiện, sản phẩm điện tử, sản phẩm nhiều giá trị gia tăng được đầu tư mới và mở rộng vốn trong 9 tháng. Cụ thể như Nhà máy sản xuất, lắp ráp và thử nghiệm vật liệu, thiết bị bán dẫn (Singapore) tại Bắc Ninh điều chỉnh mở rộng dự án thêm 1,07 tỷ USD.
Về xuất khẩu của khu vực ĐTNN, Cục Đầu tư nước ngoài nhận định, xuất siêu của khu vực này đã giúp bù đắp phần nhập siêu gần 18,2 tỷ USD của khu vực doanh nghiệp trong nước, là bệ đỡ giúp cả nước xuất siêu khoảng 19,8 tỷ USD trong 9 tháng.
Hơn 60% vốn đổ vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo
Tính lũy kế đến tháng 9 năm 2024, cả nước có 41.314 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 491,71 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án FDI ước đạt khoảng 314,5 tỷ USD, bằng gần 64% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Đại diện Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, nếu phân chia theo ngành thì các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với hơn 298,7 tỷ USD (chiếm 60,7% tổng vốn đầu tư). Tiếp theo là các ngành kinh doanh bất động sản với hơn 71,5 tỷ USD (chiếm 14,5% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với gần 41,7 tỷ USD (chiếm 8,5% tổng vốn đầu tư).
Còn nếu phân chia theo đối tác đầu tư thì 148 quốc gia, vùng lãnh thổ hiện có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký gần 88,3 tỷ USD (chiếm gần 18% tổng vốn đầu tư). Singapore đứng thứ hai với hơn hơn 81,1 tỷ USD (chiếm 16,5% tổng vốn đầu tư). Tiếp theo lần lượt là Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông.
Nếu phân chia theo địa bàn thì các nhà ĐTNN đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP. Hồ Chí Minh là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với hơn 58,2 tỷ USD (chiếm 11,8% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Hà Nội với gần 43,7 tỷ USD (chiếm 8,9% tổng vốn đầu tư); Bình Dương với hơn 42 tỷ USD (chiếm 8,5% tổng vốn đầu tư).../.