Cách gì tháo gỡ khó khăn về đăng ký nhãn hiệu hàng hóa vùng ĐBSCL?
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang đứng trước cơ hội lớn - chuyển đổi từ 'vùng sản xuất nông sản' sang 'vùng thương hiệu nông sản số'. Nhưng việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa vẫn là 'điểm nghẽn'.

Trưng bày sản phẩm OCOP TP.Cần Thơ - Ảnh: Văn Kim Khanh
Thực trạng đăng ký nhãn hiệu hàng hóa ở ĐBSCL
Theo Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT), trong giai đoạn 2018-2022, vùng ĐBSCL ghi nhận gần 9.870 đơn đăng ký sở hữu tập thể (SHTT) và hơn 5.800 văn bằng bảo hộ. Sự phát triển của nhãn hiệu tập thể (NHTT) nhãn hiệu hàng hóa (NHNH) và nhãn hiệu cá nhân (NHCN) được xem là công cụ pháp lý và tiếp thị quan trọng, nhằm bảo đảm nguồn gốc xuất xứ, nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm. Nhiều sản phẩm đã đạt được thành công đáng kể như: Gạo thơm Sóc Trăng (ST) với danh hiệu "Gạo ngon nhất thế giới" năm 2019; hay Xoài cát Hòa Lộc xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada. Tại TP. Cần Thơ, sau sáp nhập, thành phố hiện có 3 chỉ dẫn địa lý, 8 nhãn hiệu chứng nhận, 41 nhãn hiệu tập thể, với các sản phẩm điển hình như: Cá thác lác Hậu Giang, hành tím Vĩnh Châu, artemia Vĩnh Châu, khóm Cầu Đúc - Hậu Giang...

Nông sản Cần Thơ sẽ được công nghệ số hỗ trợ - Ảnh: V.K.K
Tuy nhiên, theo nhận định của TS Nguyễn Quốc Nghi - Trường Kinh tế - Đại học Cần Thơ, mặc dù ĐBSCL sở hữu số lượng lớn NHTT và NHCN, mức độ khai thác thương mại và ứng dụng công nghệ số vẫn còn khiêm tốn. Tỷ lệ sản phẩm chủ lực được gắn nhãn hiệu vẫn khiêm tốn so với khối lượng sản phẩm lưu thông. Nhiều văn bằng bảo hộ không được sử dụng đồng bộ trên bao bì, tem sản phẩm hay truyền thông, dẫn đến tình trạng "thương hiệu trên giấy."
Thạc sĩ Lê Minh Thu, Giám đốc Trung tâm thẩm định chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu Quốc Tế (thuộc Cục SHTT) cho rằng, kinh phí hỗ trợ quản lý, quảng bá nhãn hiệu hàng hóa tại địa phương còn thấp, thiếu chính sách ổn định, dài hạn. Quá trình đăng ký, quản lý và phát triển nhãn hiệu tại ĐBSCL đối mặt với nhiều khó khăn thực tế, được tổng hợp từ đặc thù sản xuất và các vướng mắc trong quy trình pháp lý”
Những hạn chế về tổ chức sản xuất manh mún, lỏng lẻo, phần lớn nông sản được sản xuất bởi các hộ nông dân, dẫn đến thiếu sự liên kết chặt chẽ và không đồng nhất về quy trình kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng. Việc thiếu hệ thống quản lý vùng nguyên liệu thống nhất khiến công tác truy xuất nguồn gốc và đảm bảo chất lượng sản phẩm gặp khó khăn, làm suy giảm uy tín chung của nhãn hiệu đã đăng ký.
Quản lý NHTT/NHCN khó khăn, do các chủ sở hữu (HTX, Hiệp hội) thường bị phân tán nguồn lực và có kinh nghiệm thương mại, quản lý hạn chế. Sau khi đăng ký thành công, việc kiểm soát và duy trì chất lượng theo quy chế chung thường bị lơ là, ảnh hưởng đến uy tín.
Nhận thức hạn chế về doanh nghiệp, cơ sở sản xuất chỉ tập trung vào sản xuất mà bỏ qua vai trò chiến lược của việc bảo hộ thương hiệu, dẫn đến rủi ro bị đánh cắp nhãn hiệu hoặc bị người khác đăng ký mất nhãn hiệu đã sử dụng. Thiếu kiến thức chuyên môn các hộ kinh doanh, HTX gặp khó khăn trong việc tra cứu, phân loại hàng hóa.
Chi phí cho việc đăng ký, tra cứu, và duy trì nhãn hiệu có thể trở thành gánh nặng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn có tiềm lực tài chính thấp. Khu vực còn thiếu đội ngũ tư vấn và cán bộ chuyên môn sâu về SHTT. Thời gian xét duyệt kéo dài: Thời gian xét duyệt đơn đăng ký nhãn hiệu tại Cục SHTT thường kéo dài (từ 18 đến 24 tháng), gây chậm tiến độ kinh doanh và tạo áp lực cạnh tranh.
Tình trạng vi phạm SHTT vẫn diễn ra phổ biến. Việc xử lý tranh chấp và thực thi quyền sở hữu nhãn hiệu còn phức tạp, tốn kém chi phí và thời gian. Tình trạng gian lận thương mại, sử dụng sai chỉ dẫn địa lý diễn ra khá phổ biến, đặc biệt trên môi trường thương mại điện tử.

Chủ nhiệm HTX Du lịch nông nghiệp Cồn Sơn (Cần Thơ) thắc mắc về thương hiệu hàng hóa - Ảnh: V.K.K
Các giải pháp đẩy nhanh việc đăng ký và khai thác nhãn hiệu hàng hóa ở ĐBSCL
Bà Trần Thị Thanh Điệp – Trưởng Phòng SHTT- Sở Khoa học và Công nghệ TP. Cần Thơ cho biết: “Để tối ưu hóa giá trị SHTT và nâng cao năng lực cạnh tranh, việc tích hợp SHTT và Chuyển đổi số là giải pháp chiến lược. Chính quyền địa phương cần ưu tiên đầu tư hạ tầng số và hỗ trợ kỹ thuật trong đăng ký, quản lý, giám sát quyền SHTT. Việc tích hợp dữ liệu về NHTT/NHCN vào hệ thống thông tin địa lý và cơ sở dữ liệu dùng chung sẽ nâng cao năng lực giám sát và định vị thương hiệu sản phẩm chủ lực".
Phát triển nền tảng quản lý CDĐL trực tuyến và ứng dụng các công nghệ như Blockchain trong truy xuất nguồn gốc, kiểm soát chất lượng. Triển khai các hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng mã QR, mã vạch thông minh, hoặc cổng dữ liệu truy cập mở (open data) để nâng cao niềm tin người tiêu dùng.
Theo bà Trần Thị Thanh Điệp, TP. Cần Thơ sẽ tăng cường kết nối giữa cơ quan quản lý – hợp tác xã – doanh nghiệp – cơ sở sản xuất, kinh doanh - nông dân để phát huy tối đa vai trò của hệ thống SHTT như một công cụ chiến lược, hướng tới phát triển bền vững các sản phẩm chủ lực.

Tiến sĩ Nguyễn Hữu Cẩn, Quyền Viện trưởng Viện SHTT quốc gia - Ảnh: V.K.K
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Cẩn, quyền Viện trưởng Viện SHTT quốc gia cho rằng, ĐBSCL đang đứng trước cơ hội lớn để chuyển đổi từ “vùng sản xuất nông sản” sang “vùng thương hiệu nông sản số”. Việc giải quyết triệt để các khó khăn từ quy mô sản xuất nhỏ lẻ, nhận thức SHTT, đến vướng mắc quy trình pháp lý đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ.”
Chuyển đổi số, thông qua số hóa dữ liệu SHTT, truy xuất nguồn gốc và thương mại điện tử đa kênh, là giải pháp tiên quyết để khai thác hiệu quả hơn 350 nhãn hiệu tập thể và chứng nhận ở ĐBSCL đã được bảo hộ. Hoàn thiện khung chính sách, tăng cường năng lực quản trị thương hiệu tập thể sẽ là điều kiện then chốt, giúp ĐBSCL khẳng định vị thế thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế.











