Cách mạng Tháng 8: Bài học lịch sử soi đường cho phát triển kinh tế hôm nay

Từ dấu mốc Cách mạng Tháng Tám lịch sử, Việt Nam hôm nay vững bước đi lên với cơ đồ, uy tín quốc tế ngày càng lớn mạnh. Những bài học lịch sử từ cuộc cách mạng vĩ đại tiếp tục được vận dụng sáng tạo, thôi thúc khát vọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự cường, đất nước hùng cường, thịnh vượng.

Từ năm 2025, Việt Nam tạo lập được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế chưa từng có và tự tin bước vào kỷ nguyên vươn mình để trở thành nước thu nhập trung bình cao năm 2030 và nước công nghiệp có thu nhập cao năm 2045. Đây cũng là thời điểm Việt Nam kỷ niệm 80 năm cách mạng Tháng 8 thành công - cuộc cách mạng tạo bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc và lịch sử phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), nhà nước dân chủ công- nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Những bài học quý báu của cách mạng Tháng 8 có thể được xem là những nguyên lý cơ bản xuyên suốt cách mạng Việt Nam được kiểm định khắt khe bởi thực tiễn 80 năm và được vận dụng sáng tạo trong phát triển kinh tế đất nước hôm nay.

Đây là sự vận dụng rất sáng tạo quan điểm cách mạng không ngừng đã từng làm nên thắng lợi vang dội của cách mạng Tháng 8. Theo lô-gic vận động, cách mạng sẽ phát triển từ mức độ thấp và phạm vi hẹp sang mức độ cao và phạm vi rộng. Cách mạng Tháng 8 đã tiến từ giành chính quyền từng phần, từ các địa phương có sự suy yếu thậm chí “rệu rã” của chính quyền chế độ cũ hay khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa- diễn ra rầm rộ, đồng loạt trên phạm vi cả nước gồm cả Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ để giành toàn bộ chính quyền toàn quốc.

Thực chất, đây là quá trình tích lũy đầy đủ và toàn diện lực lượng cách mạng đã đạt đến độ chín muồi đủ để chuyển hóa về chất trong phát triển - bước sang trình độ phát triển mới cao hơn hẳn về trình độ và phạm vi lan tỏa rộng hơn.

Thực tế, sau 80 năm thực hiện giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, trải qua giai đoạn kế hoạch hóa tập trung mệnh lệnh và 40 năm đổi mới liên tục và toàn diện, đất nước đã chuyển từ quốc gia thu nhập thấp sang quốc gia có thu nhập trung bình thấp từ năm 2010 với mức thu nhập bình quân đầu người đạt 1.068 USD. Đến năm 2025, con số này khoảng 5.000 USD.

Những nền tảng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được cơ bản tạo lập gồm thế chế phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa và hệ thống thị trường hàng hóa, dịch vụ, đất đai, lao động, tài chính, khoa học- công nghệ, thông tin… trên đà phát triển, vận hành đồng bộ, thực chất và có tốc độ tăng trưởng bình quân năm Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cả giai đoạn đổi mới 1986-2024 khoảng 6,5-7%. Tổng kim ngạch xuất- nhập khẩu có khả năng đạt con số kỷ lục 1.000 tỷ USD và tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút lũy kế thực hiện có thể đạt con số trên 280 tỷ USD vào năm 2025. Việt Nam có khả năng rất cao đứng thứ 20 thế giới cả về kim ngạch xuất - nhập khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Tuy nhiên, hầu hết các nguồn lực phát triển chưa được huy động tối đa từ trong nước và phần còn lại thế giới. Nói cách khác, không ít nguồn lực phát triển chưa được huy động triệt để và hiệu quả và vẫn còn tình trạng lãng phí ở mức độ nhất định nguồn lực này cả hữu hình và vô hình.

Bên cạnh đó, Việt Nam đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng và thời kỳ này, theo báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), sẽ kết thúc vào năm 2036. Nếu Việt Nam không vượt qua được ngưỡng thu nhập trung bình cao (khoảng 12.000 USD theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (WB) vào năm 2030, Việt Nam sẽ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và ít có khả năng đạt thu nhập cao, cơ hội rút ngắn sự tụt hậu so với các quốc gia khác không còn. Việt Nam sẽ rất khó khăn để “sánh vai với các cường quốc 5 châu” vào năm 2045 như Bác Hồ mong muốn vào ngày đầu giành độc lập 80 năm trước.

Trong giai đoạn từ năm 2025 đến 2030, Việt Nam đứng trước sự lựa chọn mang tính bước ngoặt - hoặc là tăng trưởng ít nhất 2 con số liên tục để vượt qua bẫy thu nhập trung bình và điều này đồng nghĩa với việc cần triệt để tận dụng mọi cơ hội phát triển; hoặc là rơi vào bẫy thu nhập trung bình với hậu quả nặng nề là tụt hậu liên tục trong phát triển.

Tinh thần nắm bắt cơ hội kịp thời trong cách mạng Tháng 8, tinh thần quật khởi và tinh thần cách mạng không ngừng đòi hỏi Việt Nam chọn mục tiêu tăng trưởng cao không ngừng ít nhất 8% năm 2025 và tăng trưởng liên tục 2 con số ít nhất trong suốt giai đoạn 2026-2030 và cả những năm tiếp theo.

Việc loại bỏ tình trạng cồng kềnh, chồng chéo trong hệ thống hành chính hay các loại rào cản phát triển khác để không bị bỏ lỡ cơ hội tăng tốc tăng trưởng là đòi hỏi khách quan. Tinh giản bộ máy được coi là cuộc cách mạng về bộ máy hành chính để bộ máy vận hành hiệu quả, hiệu năng và hiệu lực. Việc bảo đảm tính công khai, minh bạch, phục vụ sự phát triển của bộ máy cần được coi trọng.

Từ năm 2025, việc tinh giản bộ máy được thực hiện cả sáp nhập các bộ, ban ngành, sáp nhập 63 tỉnh và thành phố xuống con số 34, loại bỏ hoàn toàn cấp huyện, sáp nhập xã.

Nền hành chính 3 cấp rất nặng nề, không tận dụng được tiến bộ công nghệ số hóa, khó tạo được tăng trưởng đột phá, gây tình trạng quan liêu, sách nhiễu, gây tốn kém chi phí và thời gian cho doanh nghiệp và người dân.

Công việc tinh giản này thực hiện trong thời gian rất ngắn - chỉ trong vòng 60 ngày với tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng”, không gây chậm trễ, không bỏ trống phạm vi công việc. Phương châm hành động là “không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm”.

Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần khẩn trương cao nhất của cách mạng Tháng 8 khi đứng trước tình trạng “ngàn cân treo đầu sợi tóc”, “Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, nghĩa là chỉ trong vòng 10 ngày phải giành hoàn toàn chính quyền về tay nhân dân.

tắc của cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Luận điểm này được chứng minh bằng thắng lợi cách mạng Tháng 8 khi huy động được sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân về tinh thần và vật chất, tính mạng và của cải để giành và bảo vệ độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân.

Cùng với các nguồn lực khác như lao động, vốn, đất đai, bộ máy quản lý, kinh tế nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã được huy động phát huy hiệu quả gần như đến mức cao nhất, nguồn lực khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và kinh tế tư nhân chưa được huy động phù hợp với bản chất và vai trò to lớn của chúng hay đây là những khâu yếu nhất cần được điều chỉnh để trở thành trụ cột thực hiện đầy đủ nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm giai đoạn mới.

Khoa học - công nghệ chưa được đầu tư phát triển thỏa đáng như chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) chỉ mới chiếm 0,5% GDP trong khi mức trung bình thế giới từ 1,5-2% GDP.

Đổi mới sáng tạo của Việt Nam được xếp ở vị trí trung bình, xếp hạng 44-45 trong 140 nước khảo sát bởi Tổ chức Văn hóa - giáo dục và khoa học (UNESCO) của Liên hợp quốc.

Chuyển đổi số ở Việt Nam đang trên đà thực hiện và tỷ trọng kinh tế số Việt Nam trong GDP của nền kinh tế là 17% năm 2024 theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính).

Kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế quan trọng nhất chưa nhận được sự đối xử công bằng nhất là công bằng, công khai, minh bạch trong tiếp cận nguồn lực và cơ hội phát triển. Do đó, rất nhiều nguồn lực phát triển của toàn xã hội nằm trong mọi tầng lớn nhân dân chưa được huy động triệt để.

Tình trạng này suy cho cùng là chưa tận dụng triệt để sức mạnh của nguồn lực nằm trong đông đảo quần chúng nhân dân vào thực hiện mục tiêu cách mạng giai đoạn phát triển mới.

Do đó, cần phát triển toàn diện các yếu tố này bằng các mô hình, quy trình, công cụ và giải pháp phù hợp cũng như cần có sự đồng hành chính phủ, doanh nghiệp và người dân trong thực hiện mục tiêu này.

Cách mạng Tháng 8 diễn ra nhờ tác động của môi trường quốc tế thuận lợi - chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng thế giới. Việc tận dụng cơ hội quốc tế và nguồn hỗ trợ, hợp tác với nước ngoài cần được coi trọng để vừa khai thác hiệu quả nguồn lực trong nước vừa tận dụng triệt để nguồn lực nước ngoài thông qua chính sách đối ngoại mềm dẻo.

Việt Nam chọn chính sách đối ngoại “cây tre Việt Nam” phản ánh sự kiên định của nguyên tắc như gốc cây tre nhưng thân, cành và lá cây tre rất mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo, đặc thù với từng bối cảnh cụ thể, đối tác cụ thể và từng loại giao dịch thương mại, đầu tư, quản trị… Điều này thể hiện thành công thực chất quá trình hội nhập quốc tế tích cực, chủ động.

Đồng thời, để bảo đảm nguyên tắc “thượng tôn pháp luật” cả trong nước và các quy định pháp luật, cam kết quốc tế được Việt Nam phê chuẩn, cần hoàn thiện hệ thống luật pháp theo hướng đồng bộ, cập nhật với tiến bộ công nghệ diễn ra nhanh chóng, phù hợp thông lệ quốc tế, phù hợp thông lệ quốc tế, tuân theo phương châm đôi bên cùng có lợi, “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ” để tăng cường khối đại đoàn kết trong nước và đoàn kết quốc tế.

Hội nhập sẽ càng ngày càng diễn ra theo chiều sâu, thực chất, hiệu quả, đa dạng hóa và đa phương hóa, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã đàm phán và ký kết được 17 hiệp định thương mại tự do và phát triển được quan hệ đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện, hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện với 55 đối tác trên thế giới.

Đây là cách thức để Việt Nam nhận được sự ủng hộ tối đa của phần còn lại thế giới về thị trường 8,1 tỷ dân có thu nhập bình quân đầu người khoảng 12.500 USD, nguồn vốn đầu tư, công nghệ, lao động trình độ cao quy mô lớn để nhân lên gấp bội sức mạnh nội tại và cải thiện liên tục sức chống chịu của nền kinh tế phục vụ kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ của đất nước.

Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng - Đại học Kinh tế quốc dân
Biên tập: Trần Ngọc
Trình bày: Đồng Toàn

Nguồn VOV: https://vov.vn/kinh-te/cach-mang-thang-8-bai-hoc-lich-su-soi-duong-cho-phat-trien-kinh-te-hom-nay-post1231046.vov