Cách mạng Tháng Tám và sự phát triển của giáo dục Việt Nam

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã tạo bước ngoặt lịch sử cho nền giáo dục Việt Nam phát triển và không ngừng đổi mới, góp phần xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.

Hình thành và phát triển nền giáo dục cách mạng

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Giáo dục nước nhà bước sang một giai đoạn đặc biệt, khắc phục tình trạng trì trệ, lạc hậu kéo dài nhiều năm. Ngày 2-9-1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thành lập, cùng lúc đối mặt với nạn đói, nạn dốt và giặc ngoại xâm. Thống kê thời kỳ đó, trong 100 người thì có 3 trẻ em từ 8 đến 16 tuổi đi học và 2 người lớn biết chữ, còn 95 người thất học. Có những làng không một người nào biết chữ.

Ngay từ những ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam đã hết sức quan tâm phát triển giáo dục. Trong buổi họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra 6 việc cấp bách, chống nạn mù chữ xếp thứ hai, chỉ sau nạn đói. Bác nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”. Ngày 8-9-1945, Chính phủ ban hành liền 3 Sắc lệnh số 17, 19 và 20. Nha Bình dân học vụ ra đời nằm trong Bộ Quốc gia Giáo dục, hạn trong 6 tháng làng và thị trấn nào cũng phải có “ít ra là một lớp bình dân” và cưỡng bách học chữ quốc ngữ trên toàn quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra bản hiệu triệu đồng bào tham gia chống nạn mù chữ, khuyên người chưa biết chữ phải thi đua đi học, những người đã biết phải thi đua dạy học; kêu gọi mọi người giúp của, giúp công để tiêu diệt “giặc dốt”.

Với thắng lợi của Chiến dịch Biên giới, năm 1950 cũng là dấu mốc quan trọng của nền giáo dục khi Chính phủ quyết định mở cuộc cải cách giáo dục đầu tiên, phát triển hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm, phù hợp với hoàn cảnh lúc đó; đưa phong trào bình dân học vụ lên sơ cấp, trung cấp. Hệ thống này sau gọi là hệ bổ túc văn hóa, cùng hệ thống giáo dục phát triển từ Việt Bắc đến Khu 5 và một phần các tỉnh miền Nam Trung Bộ, Nam Bộ. Theo đó, các tỉnh đều có trường cấp 2, các khu đều có trường cấp 3 và chuyển dần từ hệ thống giáo dục cũ sang hệ thống giáo dục mới. Mặc dù kháng chiến nhưng hệ thống trường học từ khu đến tỉnh phát triển rất mạnh. Đây là bước tiến dài so với thời gian trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

 Học viên Học viện Kỹ thuật Quân sự luyện tập kíp thực hành chiến đấu của hệ thống mô phỏng bán tự nhiên đài điều khiển tên lửa S-300 PMU1. Ảnh: ĐỨC NAM

Học viên Học viện Kỹ thuật Quân sự luyện tập kíp thực hành chiến đấu của hệ thống mô phỏng bán tự nhiên đài điều khiển tên lửa S-300 PMU1. Ảnh: ĐỨC NAM

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Trung ương và Chính phủ bắt đầu cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai vào năm 1956. Như thế, mỗi thời kỳ hòa bình đều có dấu mốc phát triển lớn về giáo dục. Tuy kháng chiến ở miền Nam ác liệt nhưng tư tưởng phát triển giáo dục theo đường lối của Đảng và Trung ương luôn được đề cao. Cả miền Bắc và các khu vực giải phóng, khu vực tạm chiếm ở miền Nam đều được mở trường mới. Thậm chí ngay Trung ương cục miền Nam cũng đã mở trường sư phạm.

Khi thống nhất đất nước và bước vào giai đoạn đổi mới, chủ trương phát triển giáo dục vẫn được kiên trì và tiếp nối ở Đại hội VI năm 1986. Năm 1987, dưới sự chỉ đạo của Trung ương và Chính phủ, ngành giáo dục đưa ra khẩu hiệu: Giữ vững ổn định và phát triển, nhằm khôi phục và đưa sự nghiệp giáo dục thoát khỏi khó khăn; tiếp tục thực hiện đường lối phát triển của Đảng, tiếp tục phong trào xóa mù chữ và phổ cập tiểu học.

Nhiều thành tựu được thế giới đánh giá cao

Nhờ kiên định mục tiêu đề ra, tháng 12-2000, Việt Nam đã thực hiện được xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. 10 năm tiếp theo, Việt Nam tiếp tục phổ cập giáo dục trung học cơ sở và hoàn thành vào năm 2010. Kết quả của những nỗ lực không ngừng đó của ngành giáo dục đã được Liên hợp quốc công nhận về sự phát triển của giáo dục Việt Nam. Dù chúng ta phải tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng đất nước kéo dài và sau đó gánh chịu những khủng hoảng, cấm vận, nền kinh tế ở mức trung bình nhưng nền giáo dục đã giành được những thành tựu đáng kể và được thế giới đánh giá cao.

Với 94% người Việt Nam biết chữ, từ năm 1990, Liên hợp quốc đã công nhận chỉ số phát triển con người của Việt Nam đạt 0,463. Trong những năm đổi mới, chỉ số này tăng lên là 0,610, đưa Việt Nam vào trong số những nước có trình độ phát triển cao. Từ đó đến năm 2013, chỉ số này là 0,638, đứng thứ 121/190 nước và vùng lãnh thổ. Riêng về chỉ số giáo dục qua tiêu chí về người biết chữ, nước ta xếp hạng cao, đứng ở khoảng trung bình (đứng thứ 70-80) trong các nước thành viên của Liên hợp quốc. Chúng ta đã có một hệ thống giáo dục từ mầm non đến đại học và sau đại học hoàn chỉnh. Đặc biệt, tại các kỳ thi quốc tế, nhất là các môn Toán và Tin học, Việt Nam luôn đứng ở trong top 5 hoặc top 10 thế giới.

Sau gần 40 năm đổi mới, nền giáo dục nước ta đã đạt được nhiều thành tựu trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy nhân tố con người nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Chất lượng từng bước được nâng lên, hệ thống giáo dục quốc dân từng bước được hoàn thiện, mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học.

Học sinh Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Victoria Thăng Long (Hà Nội) học tập theo phương pháp dạy tích cực. Ảnh: THƯ NGỌC

Học sinh Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Victoria Thăng Long (Hà Nội) học tập theo phương pháp dạy tích cực. Ảnh: THƯ NGỌC

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 nhấn mạnh: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục, đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Đây là định hướng lớn và đang được các cấp, các ngành triển khai tích cực nhằm tạo nên những bước chuyển căn bản, toàn diện trong giáo dục Việt Nam hiện nay.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo, yêu cầu phải xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Bên cạnh đó, xác định rõ mục tiêu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn tới nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Kết luận số 91-KL/TW ngày 12-8-2024 của Bộ Chính trị khóa XIII tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW khẳng định: Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục quốc phòng, an ninh gắn với việc xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Vì vậy, cần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, trong đó có giáo dục quốc phòng và an ninh cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt cho đội ngũ cán bộ, công chức và học sinh, sinh viên.

Giáo dục góp phần bảo vệ Tổ quốc

Giáo dục quốc phòng và an ninh trực tiếp góp phần tạo ra khả năng, phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước. Đó là bài học lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và là kinh nghiệm sống còn của các nước trên thế giới. Điều 4 của Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh xác định mục tiêu: Giáo dục cho công dân về kiến thức quốc phòng và an ninh để phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống dựng nước và giữ nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao ý thức, trách nhiệm, tự giác thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Theo đó, mục tiêu cụ thể của giáo dục quốc phòng và an ninh hiện nay là góp phần đào tạo con người mới phát triển toàn diện; có hiểu biết những nội dung cơ bản về quốc phòng, an ninh, về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc, về trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trong bảo vệ Tổ quốc; nêu cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức cảnh giác cách mạng trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động; có kiến thức cơ bản về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng và an ninh; có kỹ năng hoạt động quân sự, an ninh cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, công tác giáo dục, đào tạo trong Quân đội đã được triển khai quyết liệt, đồng bộ, toàn diện và đạt nhiều thành tựu quan trọng, góp phần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Quân đội có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện. Sau hơn 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong Quân đội (Quyết định số 2523/QĐ-BQP ngày 15-7-2013) và thực hiện Nghị quyết số 1657-NQ/QUTW ngày 20-12-2022 của Quân ủy Trung ương về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo trong Quân đội, công tác giáo dục, đào tạo đã có những bước phát triển, giữ vững chất lượng đào tạo, từng bước tiếp cận nền khoa học quân sự hiện đại, phương pháp giáo dục tiên tiến của quân đội các nước trong khu vực và thế giới. Công tác quy hoạch hệ thống nhà trường Quân đội có nhiều tiến bộ.

Sau nhiều năm nỗ lực triển khai thực hiện, đến nay, hệ thống nhà trường Quân đội đã được đầu tư, quy hoạch, xây dựng ngày càng chính quy, mẫu mực, hiện đại, bảo đảm tinh, gọn, hoạt động hiệu quả, vừa phù hợp với mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực hiện tại, vừa đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong tương lai. Hệ thống kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của các trường được đầu tư xây dựng ngày càng chuẩn hóa, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo có tính đặc thù của từng trường, đồng thời đi tắt đón đầu các công nghệ hiện đại. Một số nhà trường Quân đội đã được quan tâm thí điểm đầu tư, xây dựng theo mô hình “Nhà trường thông minh tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; tiêu biểu là Học viện Quân y và Học viện Kỹ thuật Quân sự đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là trường trọng điểm quốc gia.

Kế thừa, phát huy thành quả và tinh thần của Cách mạng Tháng Tám, ngành giáo dục đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước. Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền giáo dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và nâng cao trình độ đào tạo, trình độ và kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn, các đối tượng chính sách và người có hoàn cảnh khó khăn. Qua đó, chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; phát huy sức mạnh “thế trận lòng dân”, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa, trong mọi tình huống.

Thiếu tướng, TS TRẦN NGỌC THANH, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Quốc phòng và An ninh, Bộ Giáo dục và Đào tạo

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/80-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9/cach-mang-thang-tam-va-su-phat-trien-cua-giao-duc-viet-nam-842763