Cải thiện năng suất lao động để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế

Sau gần 40 năm đổi mới, tới thời điểm hiện tại, Việt Nam đang đứng thứ 33 trong Top 40 quốc gia có nền kinh tế hàng đầu thế giới. Mặc dù vậy, nếu nhìn vào GDP bình quân đầu người và năng suất lao động, Việt Nam vẫn còn khiêm tốn so với một số nước trong khu vực chứ chưa nói đến các nước trên thế giới.

Trao đổi với phóng viên Báo Nhà báo và Công luận, TS Nguyễn Tùng Lâm, Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam (VNPI) khẳng định: Việt Nam cần phải tập trung từng bước nâng cao năng suất lao động, để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn tới.

+ Ông có nhận định thế nào về năng suất lao động của Việt Nam hiện nay?

- Ông Nguyễn Tùng Lâm: Trong thập kỷ qua, năng suất lao động của Việt Nam được đánh giá là có tốc độ tăng cao nhất trong các nước ASEAN. Nỗ lực cải thiện năng suất đã giúp cho Việt Nam đạt được những kết quả đáng khích lệ về tăng trưởng năng suất, tạo cơ hội thu hẹp dần khoảng cách về mức năng suất so với các nước có nền kinh tế tiên tiến hơn.

 Ông Nguyễn Tùng Lâm - Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam (VNPI).

Ông Nguyễn Tùng Lâm - Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam (VNPI).

Theo tính toán của chúng tôi, năng suất lao động sau giai đoạn tăng trưởng nhanh với tốc độ tăng bình quân trên 6%/năm. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tốc độ có xu hướng tăng trưởng chậm lại đặc biệt trong giai đoạn bị ảnh hưởng của dịch Covid. Giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân 6%/năm, nhưng giai đoạn từ 2021-2024 tăng 3,5-5,5%/năm. Năm 2024 đã có dấu hiệu tích cực hơn, năng suất lao động đã có xu hướng tăng trở lại..

Mức năng suất lao động Việt Nam hiện nay đã vượt hơn Philippines, tương đương với Indonesia nhưng vẫn còn thấp hơn khá nhiều so với Malaysia, Thái Lan.

Với tốc độ tăng năng suất lao động trong giai đoạn vừa qua, đặt ra nhiều thách thức để có thể bắt kịp mức năng suất của các nước tiên tiến và mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030.

+ Vấn đề năng suất lao động của Việt Nam thấp không phải là câu chuyện mới, nhiều giải pháp, kiến nghị đã được đưa ra, mặc dù có sự cải thiện nhưng vẫn thấp. Theo ông, nguyên nhân do đâu?

- Ông Nguyễn Tùng Lâm: Phải thẳng thắn nhìn nhận năng suất lao động của chúng ta vẫn còn khá nhiều hạn chế. Tuy nhiên, nói về năng suất lao động là nói về năng lực của con người. Vì vậy, tôi cho rằng có 3 vấn đề lớn nhất.

Thứ nhất, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Lực lượng lao động đã qua đào tạo từ trình độ “sơ cấp” trở lên ước tính là 13,5 triệu người, chiếm 26,2%.

Mặc dù chất lượng lao động ngày càng nâng cao, tỷ lệ qua đào tạo tăng qua từng năm, nhưng so với nhu cầu sử dụng lao động thực tế, người lao động còn thiếu đào tạo kỹ thuật, thiếu lao động lành nghề và nền kinh tế đang đối mặt với những thách thức về thiếu hụt lao động có trình độ cao, có kỹ năng chuyên nghiệp. Đặc biệt về kỹ năng quản trị doanh nghiệp còn yếu, chưa đáp ứng kịp với sự chuyển dịch kinh tế, đổi mới công nghệ và xu hướng hội nhập toàn cầu.

Thứ hai, tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức tương đối lớn dẫn theo hệ lụy là khó ứng dụng những tiến bộ mới trong quản trị và công nghệ.

 Việt Nam cần phải tập trung từng bước nâng cao năng suất lao động, để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ảnh: KO

Việt Nam cần phải tập trung từng bước nâng cao năng suất lao động, để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ảnh: KO

Hiện nay, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức chiếm 65,6%, qua đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất lượng lao động cũng như khả năng ứng dụng khoa học công nghệ để cải thiện năng suất lao động.

Người lao động phi chính thức ở Việt Nam thường có thu nhập thấp và không thường xuyên, giờ làm việc dài và ít tiếp cận với các cơ hội phát triển kỹ năng nghề nghiệp.

Thứ ba, tình trạng già hóa dân số. Việt Nam bắt đầu quá trình già hóa dân số từ năm 2015 khi tỷ lệ người trên 65 tuổi vượt 7% tổng dân cư. Con số này hiện là 9%, đưa Việt Nam đứng thứ 3 Đông Nam Á về tỉ lệ người cao tuổi.

Tôi nhận thấy, giảm sinh là xu hướng toàn cầu nhưng tốc độ tại Việt Nam nhanh hơn mức trung bình trên thế giới và ngày càng rõ nét. Xu hướng này dẫn đến nhiều hệ lụy như: giảm quy mô dân số; đẩy nhanh tốc độ già hóa dân số; giảm lực lượng lao động.

+ Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên vươn mình, điều này sẽ mở ra các cơ hội mới, vận mệnh mới cho nền kinh tế. Dù vậy, với năng suất lao động thấp như hiện nay, theo ông có làm giảm sức cạnh tranh khi thu hút FDI?

- Ông Nguyễn Tùng Lâm:Trước khi quyết định rót vốn, các nhà đầu tư nước ngoài (FDI) đã đánh giá rất kỹ môi trường đầu tư tại Việt Nam ở nhiều góc độ khác nhau. Trong đó, năng suất lao động chỉ là một yếu tố ảnh hưởng tới quyết định của họ.

Nhìn nhận thực tế cho thấy, Việt Nam vẫn giữ được sức hút với các nhà đầu tư nước ngoài. Một điểm sáng khác trong việc thu hút FDI đó là lĩnh vực bán dẫn và trí tuệ nhân tạo, tập đoàn lớn như Apple của Mỹ đã hoàn tất việc chuyển 11 nhà máy sản xuất của mình vào Việt Nam. Đồng thời, đối tác quen thuộc của Apple tại Việt Nam là Foxconn, Luxshare và Goertek cũng đồng loạt tăng vốn, mở rộng nhà máy ở Việt Nam.

Với những ngành nghề như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI) đòi hỏi rất cao trình độ của người lao động. Do đó, khi các doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực này đầu tư vào Việt Nam sẽ có tác động lan tỏa, giúp nâng cao chất lượng lao động, từ đó cải thiện năng suất lao động ở nước ta.

Tuy nhiên, vốn FDI trong những năm qua chưa tạo ra sự chuyển dịch lao động và hình thành các ngành công nghệ cao.

Việc các doanh nghiệp FDI lựa chọn Việt Nam ở các phân khúc thấp trong chuỗi giá trị là do lợi thế cạnh tranh của Việt Nam so với các quốc gia khác trong chi phí nhân công, thuế, đất đai. Ngược lại, nước ta chưa có lợi thế cạnh tranh về công nghệ, tài chính, chất lượng nguồn nhân lực, sự hiểu biết về thị trường, khách hàng…

Bên cạnh đó, vốn FDI chưa đạt hiệu quả hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước phát triển và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Vì vậy, ngay từ khi bắt đầu triển khai dự án FDI, chính quyền các địa phương cần phối hợp với các nhà đầu tư nước ngoài để triển khai đào tạo nhân lực đúng như yêu cầu cam kết. Nên ưu tiên hỗ trợ kinh phí đào tạo nhân lực cho những dự án sử dụng công nghệ cao, quy mô lớn phù hợp với hình thành các lĩnh vực mũi nhọn và hình thành các sản phẩm chủ lực, nhân lực quản lý bậc trung và nhân lực làm việc trong lĩnh vực chuyển đổi số.

Cần nhanh chóng xây dựng chiến lược và các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp trong nước; lựa chọn và tập trung vào các doanh nghiệp có năng lực kết nối với doanh nghiệp FDI.

+ Vậy, theo ông, Việt Nam cần phải làm gì để tăng năng suất lao động, từ đó đưa kinh tế Việt Nam vững bước trong kỷ nguyên vươn mình?

- Ông Nguyễn Tùng Lâm: Hiện nay, Việt Nam hiện có khoảng 735.455 doanh nghiệp, trong đó chiếm 96,63% doanh nghiệp ngoài nhà nước và khoảng 14.400 hợp tác xã và hơn 5 triệu hộ kinh doanh.

Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, hoạt động sản xuất kinh doanh thiếu ổn định, bền vững, hiệu quả không cao. Do tiếp cận nguồn vốn tín dụng gặp khó khăn nên việc mở rộng sản xuất kinh doanh và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất còn hạn chế dẫn đến năng suất lao động và năng lực sản xuất còn thấp.

Vì vậy, cần có sự đánh giá, phân loại và thiết lập các chương trình hỗ trợ cải thiện năng suất doanh nghiệp phù hợp, bao gồm các chương trình kết nối doanh nghiệp FDI, phát triển chuyên gia năng suất, cải thiện năng lực quản trị, đào tạo kỹ năng, hỗ trợ vay vốn, đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp cần chủ động nâng cao năng lực đáp ứng các xu hướng về phát triển bền vững, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số để có thể tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.

Về dài hạn, tái cấu trúc kinh tế để chuyển dịch từ các ngành có giá trị gia tăng thấp sang các ngành có giá trị gia tăng cao, không còn sử dụng nhiều lao động chi phí thấp như lợi thế trong thời gian trước đây. Tăng cường đầu tư, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo tiếp tục là mục tiêu liên tục và lâu dài vì vốn con người và khoa học công nghệ là các yếu tố cốt lõi không thể phủ nhận đối với năng lực cạnh tranh quốc gia, cải thiện năng suất bền vững.

+ Xin cảm ơn ông!

Việt Vũ (Thực hiện)

Nguồn Công Luận: https://congluan.vn/cai-thien-nang-suat-lao-dong-de-tang-suc-canh-tranh-cua-nen-kinh-te-post331151.html