Cảm thụ văn học: 'Phận hoa bên lề' và những giá trị nhân sinh sâu sắc

Khi đến với tùy bút 'Phận hoa bên lề' người đọc sẽ càng cảm nhận được rõ nét hơn về sự tinh tế, tài hoa của Chu Văn Sơn.

Dưới con mắt tài hoa của Chu Văn Sơn, hoa lau hiện lên như những người anh hùng thầm lặng giữa đời thường. Ảnh minh họa ITN

Dưới con mắt tài hoa của Chu Văn Sơn, hoa lau hiện lên như những người anh hùng thầm lặng giữa đời thường. Ảnh minh họa ITN

Tiến sĩ Chu Văn Sơn không chỉ được biết đến với tư cách là một nhà sư phạm với phong cách giảng dạy cuốn hút, ông còn để lại nhiều đóng góp nổi bật trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học. Nhưng ít ai biết rằng, Chu Văn Sơn cũng là một nhà văn tài hoa với phong cách viết độc đáo cùng những khám phá thú vị thấm đẫm giá trị nhân văn.

Tập tùy bút “Tự tình cùng cái đẹp” gồm 11 tác phẩm được xem là di sản quý giá mà nhà văn để lại cho cuộc đời. Mỗi áng văn mở ra trước mắt người đọc những trải nghiệm thực tế thú vị để rồi đọng lại là dư âm ngọt ngào của tình yêu, của cái đẹp - đẹp trong từng câu chữ, đẹp trong từng khám phá và đẹp ở chiêm nghiệm có chiều sâu của tâm hồn, trí tuệ.

Trong đó, khi đến với tùy bút “Phận hoa bên lề” người đọc sẽ càng cảm nhận được rõ nét hơn về sự tinh tế, tài hoa của Chu Văn Sơn. Tác phẩm không chỉ giúp độc giả có những phát hiện thú vị về thế giới tự nhiên cụ thể là số phận của loài hoa lau, mà còn đem đến nhiều bài học giáo dục sâu sắc về lẽ sống.

Đức kiên nhẫn, khiêm nhường

Ở hoa lau ta học được bài học quý giá về đức kiên nhẫn, khiêm nhường, và vững tin vào vẻ đẹp nội tại giản đơn của bản thân. Hoa lau được sinh ra với số phận hết sức đặc biệt. Dù mang danh là hoa nhưng nó không được hưởng những đặc ân mà các loài hoa khác vốn có. “Không có chỗ trong những vựa hoa, quầy hoa, sạp hoa, không bao giờ có mặt trong danh sách những thứ hoa cần mua sắm để trang hoàng khánh tiết, cũng chẳng dám mơ được nằm trên bàn tay tình nhân trao tặng nhau những dịp lễ lạt. Bàn tay duy nhất mà lau biết đến trong đời là bàn tay cầm nắm nó khi triệt bỏ nó đi”.

Lau không có căn cước, không ai cấp thẻ xanh để nó có quyền cư trú tại hoa viên hay vườn nhà. Bằng cách ví von, liên tưởng vô cùng độc đáo, tác giả đã giúp người đọc cảm nhận rõ nét hơn sự bạc bẽo trong phận đời của hoa lau. Từ đó dấy lên lòng thương cảm với bao kiếp người kém may mắn ngoài kia.

Nếu chịu nhìn sâu hơn vào thực tại, ta sẽ thấy rõ những đối lập đầy trái ngang, cùng là phận người, nhưng có kẻ được sống trong đủ đầy hạnh phúc, lại lắm kẻ không một chốn dung thân trong khu trọ trần gian chật hẹp. Hệt như hoa lau, là phận hoa, nhưng lại là phận hoa bên lề!

Những tưởng lau sẽ bi ai, sẽ gục ngã, sẽ không thiết tha sinh tồn trên mặt đất lạnh lẽo, bạc bẽo này. Nhưng không, lau vẫn nhẫn nại vẫn tìm cho mình một nơi chốn thuộc về, để âm thầm vươn mình, âm thầm sống một cuộc đời có giá trị, dẫu cho người đời có lãng quên nó. Khi hầu hết các loài hoa trong năm đã khoe sắc phô hương cả rồi, nó mới nở.

“Nếu xem mỗi niên hoa như một dãy dằng dặc, xếp hàng đợi đến lượt nở, thì nó đứng ở cuối hàng. Vương quốc thực sự của nó là miền hoang, là núi đồi gò bãi”. Không bon chen hơn thua được mất với đời, loài hoa ấy tự nhận cho mình vị trí nơi “cuối hàng” sau khi tất cả các loài hoa trong năm đã khoe sắc. Không phải mùa Xuân tràn trề sức sống, không phải mùa Hạ rực rỡ nắng vàng, cũng chẳng phải mùa Thu với những cơn gió heo may mà lau lại chọn mùa Đông, hơn nữa đó lại là những ngày “đông tận” với “gió bấc mưa phùn” để phô diễn vẻ đẹp khác biệt của mình. Dẫu có là hoa hay là cỏ, thì lau vẫn sống một cuộc đời đường hoàng của riêng nó.

“Mặc, lau vẫn sống đời lau. Lầm lụi thanh bần. Lau vẫn mọc, theo cách riêng. Không riêng từng thân, mà thành từng bụi. Khi nở thì nhất loạt, cứ tua tủa vươn lên. Mỗi ngọn như một tia phun mạnh vào không trung. Tất cả như một chùm pháo hoa bừng sáng. Lau tự bắn pháo hoa, tự mình hội hè lễ lạc chăng?”.

Hình ảnh ấy, đã đem lại nhiều suy ngẫm đắt giá cho mỗi chúng ta, không ai được quyền lựa chọn nơi mình sinh ra nhưng mỗi người đều có quyền lựa chọn cho mình một cách sống. Dẫu cho tạo hóa bất công, không cho lau một hình hài rực rỡ, nhưng với lau sự rực rỡ không đến từ vẻ ngoài, mà ở cách nó đối diện với thực tại khắc nghiệt mà không nản lòng, vẫn ung dung tạo nên vẻ đẹp giản dị của riêng mình.

Đó cũng là một dẫn chứng chân thực để ta biết trân trọng, nâng niu chính mình, nhiều người cho rằng sinh ra không có một ngoại hình ưa nhìn là sự kém may mắn, nhưng qua cái cách lau vươn mình, ta chợt hiểu mỗi một cá thể tồn tại trên cõi đời này đều là một phép màu của tạo hóa, và là một phiên bản đặc biệt không trùng lặp với bất kì ai.

Dẫu không thể nào khoe sắc rực rỡ, nhưng lau vẫn biết cách tỏa ra vẻ đẹp của riêng mình, sự đoàn kết đồng lòng, nhất loạt vươn hoa tua tủa, làm tác giả liên tưởng đến những chùm pháo hoa bừng sáng trong đêm giao thừa. Xuân Diệu đã từng viết trong bài thơ “Giục giã” rằng: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/Còn hơn buồn loe lói suốt trăm năm”, phải chăng lau đã chọn sống một cuộc đời như thế?

Dẫu có bị rẻ rúng, bị người ta loại khỏi tầm mắt, nhưng lau không vì thế mà ôm mối hận với người. “Nó hảo tâm hiến mình làm giá thể để cho mỗi linh hồn đậu lại. Nó là đội quân thiện nguyện, tìm đến an trú nơi nghĩa địa để an ủi những vong linh. [..]Nó túc trực bên ngưỡng cửa hư không để đón đợi, để an ủi những vong hồn, lau khô những khổ lụy cuối cùng, rồi tiễn đưa từng vong linh vào sâu cõi hư bằng cái vẫy tay phơ phất”.

Lau không chọn cách sống “ăn miếng trả miếng” mà loài người chúng ta vẫn thường dùng để đối xử với nhau, mà ngược lại, nó rộng lượng bỏ qua những bạc bẽo mà người đời đã trao, để hiến mình làm giá thể cho những vong linh tội nghiệp.

Lau thương những linh hồn bơ vơ như thương chính cuộc đời mình. Trông lau mà ngẫm lại mình, đó cũng là một bài học ý nghĩa về lòng bao dung, vị tha để chúng ta vơi bớt những khổ đau phiền lụy.

 Ở 'Phận hoa bên lề', Chu Văn Sơn giúp mỗi người, đặc biệt là người trẻ thấm thía hơn về vẻ đẹp kiên cường, mạnh mẽ của hoa lau. Ảnh: Đặng Hoa

Ở 'Phận hoa bên lề', Chu Văn Sơn giúp mỗi người, đặc biệt là người trẻ thấm thía hơn về vẻ đẹp kiên cường, mạnh mẽ của hoa lau. Ảnh: Đặng Hoa

Nhắc về lẽ sinh tồn

Sự đạm bạc không sắc không hương của lau lại nhắc ta về lẽ tồn sinh trong cõi đời này, chập chờn và mong manh. Số kiếp của hoa lau càng giúp ta thấm thía sự hữu hạn ngắn ngủi của cuộc đời, mỗi người sinh ra đều có một quỹ thời gian sống nhất định, nhưng có lẽ tạo hóa đã khắt khe hơn khi không cho ta biết được thời hạn của mình sẽ kết thúc vào lúc nào. Chính điều ấy lại thôi thúc con người phải sống cho trọn vẹn từng khoảnh khắc quý giá.

“Mỗi tồn sinh trên cõi này chỉ là một bóng hiu hắt, một thoáng chập chờn, thế thôi”. Đúng là mỗi tồn sinh trong đời này rất mong manh, nhưng ta không thể cứ là cái bóng hiu hắt mà phải biến đời mình thành ngọn đèn sáng trong và rực rỡ nhất có thể. Để ánh sáng ấy soi sáng cho mọi ngóc ngách trong tâm hồn ta và cũng có thể chiếu sáng cho những người ta thương…

Và ở “Phận hoa bên lề”, Chu Văn Sơn cũng đã giúp mỗi người, đặc biệt là những người trẻ thấm thía hơn về vẻ đẹp kiên cường, mạnh mẽ của hoa lau. Biết bao loài hoa rạng rỡ hương sắc, mỏng manh yểu điệu khiến người ta thương, khiến người ta vương vấn, nhưng chỉ một cơn gió nhẹ thoảng qua là chúng đã rũ rượi, tơi bời…

“Mọi loài hoa đều sợ gió. Gió làm phai sắc, nhạt hương, rã cánh. Gió thành kẻ thù của hoa. Nhưng riêng lau thì không sợ gió”. Thủ pháp ẩn dụ, nhân hóa được nhà văn vận dụng vô cùng tinh tế, cùng với con mắt biết quan sát, biết nhìn sâu vào mọi vật khiến câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn đồng thời tạo nên tính đa nghĩa của văn chương. Gió ở đây phải chăng là biểu trưng cho những khó khăn, thử thách, những biến cố có thể ập đến với ta bất cứ lúc nào.

Nếu ta không đủ vững vàng thì sẽ như những cánh hoa mỏng manh kia, phai sắc, nhạt hương, rã cánh… Hoa lau không sợ gió càng khiến ta cảm thấy khâm phục trước sự mạnh mẽ, dũng cảm của phận đời bị rẻ rúng nhưng chưa bao giờ chịu khuất phục trước số phận. Đó cũng là bài học lớn cho con người khi đối mặt với những nghịch cảnh của cuộc đời.

Càng trong nghịch cảnh nếu ta biết vùng lên thì càng tỏa sáng, càng đẹp hơn, một vẻ đẹp của sự kiên cường, gai góc, vẻ đẹp của bản lĩnh, của ý chí thép. “Thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh, lúc đó thép trở nên không hề biết sợ” (Thép đã tôi thế đấy). Hoa lau cũng thế, gió chính là điều kiện quan trọng nhất để nó phô diễn hết vẻ đẹp độc đáo, mạnh mẽ nhưng cũng không kém phần duyên dáng tình tứ của mình: “Lau chờ gió để được tung bờm. Lau nương gió để cùng khiêu vũ. Đứng rủ bờm trong sương sớm, nhưng một khi nắng lên, gió dậy là nó lại tung những chỏm bờm ánh bạc, rúng động, náo nức như muốn tung mình tề phi cùng gió”.

Từ lúc sinh ra, lau đã bị người đời cất kỹ trong miền quên lãng, nhưng không vì thế mà nó rũ rượi, ủ ê “Chỉ mình nó nô giỡn với lãng quên, làm cho lãng quên đỡ phần cô tịch”… hoa lau hiện lên như một con người luôn âm thầm cống hiến, hi sinh thầm lặng không cần ai điểm mặt đặt tên, không cần bảng vàng ghi danh, không cần được người đời ca tụng, lau vẫn nhẫn nại, kiên cường và tỏa sáng nhất có thể theo cách riêng của chính mình.

Thế nhưng, dù có mạnh mẽ đến mấy, lau cũng sẽ có lúc yếu mềm, cũng giống như con người chúng ta ai cũng có những phút yếu lòng, cũng có những lúc chùn chân mỏi gối trên cuộc hành trình đơn độc thầm lặng chỉ mình mình hiểu. Những lúc như thế: “Nó gục đầu vào sương khuya. Nhưng sương khuya đâu phải là điểm tựa. Sương khuya lại từng giọt đậu lên đầu nó, dụi mình vào nó. Nó tìm nơi tựa, rốt cục lại phải làm chỗ tựa cho kẻ khác. Nó chỉ còn biết tựa vào chính mình”.

Lau tìm đến điểm tựa là sương khuya, nhưng sương khuya quá mỏng manh yếu ớt lại dụi mình vào nó. Cuối cùng lau chỉ còn biết tự lấy mình làm điểm tựa, và có lẽ đây là điểm tựa vững vàng nhất. Hình ảnh ấy, như một lời nhắc đầy sâu sắc rằng thay vì dựa vào người khác thì hãy dựa vào chính mình bởi “một con chim đậu trên cành cây, không bao giờ sợ cành cây bị gãy. Bởi niềm tin của con chim đặt ở đôi cánh của nó chứ không phải ở cành cây”.

Vậy để chính ta là điểm tựa cho cuộc đời ta, buộc mỗi người phải tự trang bị cho mình hành trang thật vững vàng, kiên cố như nền móng của ngôi nhà càng chắc chắn thì càng đứng vững trong phong ba, bão táp. Và vốn liếng mà ta cần phải có nhất có lẽ là tri thức, là tấm lòng nhân từ, lương thiện, là thái độ sống tích cực…

Không chỉ là những bài học nhân sinh sâu sắc dành đến cho độc giả, mà hình ảnh hoa lau còn gợi nên quan niệm nghệ thuật chân chính trong sáng tác văn chương. Sứ mệnh của văn học không phải chỉ ở chỗ diễn tả hiện thực trần trụi của đời sống, mà một tác phẩm văn chương có sức sống vững bền, muốn bám rễ sâu vào cuộc đời thì tự thân nhà văn phải có những khám phá và phát hiện mới mẻ, nhà văn phải là người đi tìm những vẻ đẹp khuất lấp ở những nơi tưởng chừng như không thể tạo nên cái đẹp, và chính vẻ đẹp độc đáo ấy mới mang lại giá trị thẩm mĩ thực sự cho văn chương.

Vẻ đẹp đó phải khơi gợi nên cái thiện trong lòng người, để mỗi người đọc tự soi mình vào đó khẽ rung cảm, khẽ thức dậy những khát vọng đầy cao đẹp. Ví như hoa lau, một loài hoa tưởng chừng như bỏ đi, bị rẻ rúng bị coi thường, bị đối xử bạc bẽo nhưng dưới con mắt tài hoa của Chu Văn Sơn, hoa lau hiện lên như những người anh hùng thầm lặng giữa đời thường, không gõ trống khua chiêng, âm thầm lặng lẽ, sống cuộc đời của riêng mình, âm thầm lặng lẽ cống hiến, âm thầm lặng lẽ nâng đỡ kẻ yếu trên thân hình mỏng manh của chính mình.

Sức sống bền bỉ của hoa lau cũng đã giúp người trẻ có thêm cho mình chút động lực để sống một cuộc đời kiên cường, luôn ý thức về sự hữu hạn ngắn ngủi của kiếp nhân sinh mà sống cho trọn vẹn!

Đặng Thị Hoa (Giáo viên Trường THPT Trần Bình Trọng, Cam Lâm, Khánh Hòa)

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/cam-thu-van-hoc-phan-hoa-ben-le-va-nhung-gia-tri-nhan-sinh-sau-sac-post759540.html