Cần cơ chế sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao thuộc các bệnh viện Trung ương đóng tại Hà Nội?
Theo đánh giá của GS.TS.BS. Tạ Thành Văn - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Y Hà Nội, Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) đã có những sửa đổi quan trọng liên quan đến lĩnh vực y tế. Về cơ bản các nội dung sửa đổi này là phù hợp với thực tiễn, tiềm năng nguồn lực y tế ở TP, đồng thời tạo lập mục tiêu và định hướng phát triển cho hệ thống y tế ở Thủ đô, song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của ngành y tế Thủ đô.
Chất lượng cán bộ y tế còn yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn
Trên thực tế, chất lượng khám chữa bệnh của các bệnh viện, cơ sở y tế trên địa bàn Thủ đô chưa xứng tầm với vị thế là cơ sở y tế tuyến cuối của Hà Nội. Công tác y tế dự phòng, nhất là ở cơ sở còn yếu; cơ sở vật chất, trang thiết bị của hệ thống y tế TP, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở còn thiếu và xuống cấp.
Nguồn nhân lực y tế còn thiếu về số lượng với bằng chứng là tỷ lệ nhân viên y tế/10.000 dân của TP trên số dân chưa cao: 14 bác sĩ/10.000 dân, so với số 11,5 bác sĩ/10.000 dân của cả nước trong năm 2022 và thấp hơn nhiều so với Úc: 38; Pháp: 34; Hoa Kỳ: 26; Trung Quốc: 22. Trên thế giới, cứ 1 bác sĩ thì có 3 - 4 điều dưỡng viên, Nhật Bản thậm chí có đến 9 - 10 người, còn ở Việt Nam 1 bác sĩ chưa có đến 2 điều dưỡng viên. Bên cạnh đó, sự mất cân đối nghiêm trọng về nhân lực y tế giữa lĩnh vực y học lâm sàng và y học dự phòng; giữa các chuyên khoa trong từng lĩnh vực với nhau là vấn đề tồn tại nhiều năm nay mà hiện nay vẫn chưa có những giải pháp chính sách để giải quyết hiệu quả.
GS.TS.BS. Tạ Thành Văn cho biết thêm, chất lượng cán bộ y tế của Hà Nội còn yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Một minh chứng cho thấy trước năm 2013, khi Hà Nội ký kết Dự án đào tạo đội ngũ bác sĩ Nội trú với Trường Đại học Y Hà Nội thì số bác sĩ nội trú tốt nghiệp làm việc cho các bệnh viện trực thuộc Hà Nội trong vòng 40 năm chỉ là 60 người (giai đoạn 1974 - 2012). Khắc phục điều này, giai đoạn 2013 - 2020 lãnh đạo Hà Nội đã ký kết hợp đồng đào tạo bác sĩ nội trú cho Hà Nội với Trường Đại học Y Hà Nội và chỉ trong 8 năm Trường Đại học Y Hà Nội đã cung cấp cho Hà Nội 182 bác sĩ nội trú thuộc các chuyên ngành khác nhau. Nếu tính đến sự cân đối về chất lượng nguồn nhân lực y tế giữa các chuyên khoa thì bức tranh còn “ảm đạm” hơn nhiều.
Hãy tạm so sánh danh mục chuyên môn mà các bệnh viện tuyến cuối của Hà Nội làm được với các bệnh viện tuyến Trung ương đóng ngay trên địa bàn thì chúng ta sẽ thấy rõ. Sự thiếu vắng các chuyên gia trong một số lĩnh vực chuyên khoa đã tạo ra những khoảng trống nhân lực y tế chất lượng cao ở ngay các bệnh viện của Hà Nội ở giữa thủ đô như: Pháp y, giải phẫu bệnh, lao, truyền nhiễm, xét nghiệm... Nếu tính đến các bệnh viện ở các quận huyện ngoại thành thì tình hình còn khó khăn hơn rất nhiều.
Hiện nay, cho dù tình hình có được cải thiện hơn song vẫn còn xa với nhu cầu thực tiễn của ngành y tế Thủ đô đòi hỏi. Bên cạnh đó, công tác khám chữa bệnh từ xa chưa được vận hành, hệ thống cấp cứu lưu động chưa thực sự hiệu quả và còn mỏng, tình trạng tắc nghẽn tại một số cơ sở y tế vẫn tồn tại…
Tiết kiệm được ngân sách đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực, tránh chồng chéo, lãng phí
Góp ý Điều 26 “Phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân”, GS.TS.BS. Tạ Thành Văn cho rằng, Khoản 1 Điều 26 quy định: “1. Xây dựng hệ thống y tế Thủ đô tiên tiến và hiện đại, theo mô hình ba cấp, phù hợp với quy mô dân số, địa bàn phục vụ. Tập trung phát triển một số lĩnh vực tiếp cận trình độ công nghệ thế giới. Nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh và năng lực hệ thống y tế dự phòng, y tế cơ sở, hệ thống bác sĩ gia đình của Thủ đô, bảo đảm chăm sóc liên tục, toàn diện sức khỏe Nhân dân. Phát triển hệ thống cấp cứu ngoại viện công lập và ngoài công lập”.
Tuy nhiên, với quy định mới trong Dự thảo sửa đổi về việc “Chuyển giao các bệnh viện thuộc bộ, cơ quan nhà nước ở Trung ương về TP Hà Nội quản lý, trừ các bệnh viện thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; bệnh viện hạng đặc biệt; bệnh viện của các trường đại học y”. Có một số quan điểm không đồng nhất về nội dung này xuất phát từ các góc nhìn khác nhau. Chúng tôi đề xuất nên điều chỉnh lại quy định này cho phù hợp.
Việc chuyển giao các bệnh viện thuộc các Bộ, cơ quan nhà nước ở Trung ương về TP Hà Nội hoặc các Trường Đại học Y quản lý là phù hợp với thế giới. Tuy nhiên, cần phải đặt các Trường Đại học Y trên địa bàn là ưu tiên số 1 vì các bệnh viện thực hành này của các Trường Đại học Y sẽ là nơi đào tạo ra đội ngũ cán bộ y tế trình độ cao, ứng dụng và chuyển giao công nghệ y tế mới cho không chỉ Hà Nội mà cho toàn bộ hệ thống y tế Việt Nam.
Bên cạnh đó, Hà Nội cần phải ban hành các chính sách, cơ chế sử dụng nguồn nhân lực y tế chất lượng cao của đất nước thuộc các bệnh viện, Trường đại học Y Dược trực thuộc trung ương đóng trên địa bàn Hà Nội. Điều này đặc biệt quan trọng bởi lẽ chỉ riêng Hà Nội mới có sự ưu đãi đặc biệt này. Dù là cơ sở y tế hay trường đại học nào trực thuộc trung ương, nhưng một khi ở trên địa bàn Hà Nội thì đối tượng phục vụ trước hết vẫn là người dân Hà Nội. Các chính sách này tạo không chỉ tạo động lực cho Thủ đô tận dụng được đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn cao nhất của đất nước mà còn tiết kiệm được ngân sách đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực, tránh chồng chéo, lãng phí.
Hà Nội cần thiết phải xây dựng trung tâm quản lý cơ sở dữ liệu nguồn nhân lực y tế của Thủ đô. Cơ sở dữ liệu bao gồm: 1) Thông tin chung: Số lượng nhân viên y tế của từng khoa/phòng trong các cơ sở y tế công lập và ngoài công lập trên địa bàn Thủ đô; sự thay đổi và biến động hàng tháng; nhu cầu phát triển hàng năm; danh mục kỹ thuật chuyên môn đang và sẽ triển khai..; 2) Thông tin cá nhân của từng nhân viên y tế chi tiết tới thời hạn của chứng chỉ hành nghề, lĩnh vực chuyên môn và số giờ tham gia đào tạo liên tục hằng năm...
Tất cả các thông tin trên sẽ là cơ sở khoa học và thực tiễn giúp cho các nhà quản lý đưa ra các chiến lược phát triển đội ngũ nhân viên y tế hàng năm của từng chuyên khoa, tại từng cơ sở y tế phù hợp với nhu cầu chăm sóc sức khỏe của từng địa phương trong các giai đoạn phát triển của Thủ đô.
Cùng với đó, Hà Nội cần có chế độ đãi ngộ, quy định về khám chữa bệnh và cơ chế chi trả bảo hiểm y tế phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa và tính đặc thù của địa bàn Thủ đô; quy định về cơ chế tài chính, dịch vụ khám chữa bệnh và thanh toán bảo hiểm y tế hợp lý để khuyến khích phát triển đội ngũ bác sĩ làm việc cho cơ sở y tế ngoài công lập; tạo mối liên hệ có tính hệ thống giữa cơ sở y tế công lập và ngoài công lập. Cần có một tư duy thống nhất: dù cơ sở y tế công lập hay ngoài công lập thì đều có chung một sứ mệnh là chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho người dân, chủ thể của xã hội, tạo nên sự phát triển của Thủ đô và đất nước.
Do vậy chúng ta cần có một chính sách công bằng cho sự phát triển của cả hai nhóm cơ sở y tế này. Ngoài nguồn bảo hiểm, ngân sách thành phố cần bảo đảm cho hệ thống cơ sở y tế cả công lập và ngoài công lập đặc biệt trong lĩnh vực y tế dự phòng và công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu. Cần đặc biệt chú trọng đầu tư và ban hành các chính sách khuyến khích nguồn nhân lực chất lượng cao cho y học gia đình và y tế cơ sở, nơi tiếp cận người bệnh sớm nhất.
Bên cạnh đó, trong Dự thảo Luật cũng cần xác định rõ việc xây dựng, thực hiện quản lý hồ sơ sức khỏe điện tử tới từng người dân với một trung tâm quản lý dữ liệu thống nhất và đồng bộ là cần thiết và sẽ đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn cho kinh tế, xã hội của Thủ đô.
Ngoài ra, Luật sửa đổi cần bổ sung cơ chế, chính sách cho việc chuyển vượt tuyến thuận lợi khi tuyến dưới không thực hiện được các nhiệm vụ chuyên môn. Cơ chế tính toán chi phí và phân bổ tài chính cũng không nên tập trung vào các cơ sở y tế tuyến trên. Việc đầu tư cho tuyến y tế cơ sở kết hợp với phát triển mạng lưới bác sĩ gia đình không chỉ góp phần giảm tải cho các cơ sở y tế tuyến trên mà còn đảm bảo an sinh xã hội toàn diện, bền vững, giảm chênh lệch mức sống giữa khu vực đô thị và nông thôn.
Chính vì vậy, dự thảo cần làm rõ hơn việc xây dựng hệ thống y tế, y tế dự phòng, y tế cơ sở, y tế gia đình gắn với cơ chế đặc thù cho y tế Hà Nội. Đặc biệt với TP Hà Nội rất cần cần thiết phải được nghiên cứu phát triển một số chính sách đặc thù trong phát triển y tế Thủ đô theo nguyên lý Y học gia đình, mô hình y tế phổ biến ở hầu hết các nước phát triển.
Góp ý vào Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi), Trường Đại học Dược Hà Nội cho rằng xét về mặt tích cực, đổi mới, thì quy định về phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe Nhân dân tại Dự thảo Luật về cơ bản, đã được thiết kế trên cơ sở cân bằng lợi ích giữa 3 chủ thể đó là: Chính quyền đô thị; Nhà đầu tư, cơ sở y tế và người dân thông qua việc thiết kế Điều 26 với 7 khoản.
Tuy nhiên, để hoàn thiện dự thảo quy định, đề nghị Ban soạn thảo cần hoàn thiên loại bỏ quy định pháp lý mang tính quy tắc quản lý Nhà nước, yếu tố hành chính nhiều hơn yếu tố thị trường, nặng về hoạt động của Chính quyền Thủ đô, chưa xử lý hài hòa mối quan hệ bình đẳng về ưu đãi đầu tư giữa cơ sở y tế công lập và cơ sở y tế tư nhân trong tiếp cận và hưởng thụ ưu đãi nêu tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 26 Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi). Đồng thời, nên nghiên cứu bổ sung về đào tạo nguồn nhân lực y tế bao gồm cả y, dược, điều dưỡng, trang thiết bị y tế (điều 26 chủ yếu đề cập về dịch vụ y tế. Thành phố cần suy nghĩ về phát triển ngành công nghiệp Dược bao gồm cả hệ thống cung ứng thuốc, vừa đáp ứng nhu cầu người dân vừa giảm gánh nặng mua sắm đấu thầu cho các cơ sở y tế.