Cần có chiến lược 'hồi hương' cổ vật, di vật, cổ vật về nước
Ngày 26/6, Quốc hội thảo luận về dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi).
Một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm, cho ý kiến tại phiên họp là quy định về quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Theo ĐB Thượng tọa Thích Đức Thiện (Đoàn Điện Biên), Phật giáo Việt Nam với hơn 2000 năm lịch sử đã trở thành một thành tố văn hóa không thể thiếu trong truyền thống văn hóa, văn hiến Việt Nam. Phật giáo đã tạo dựng phần lớn trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam, ở cả lĩnh vực di sản văn hóa vật thể, di sản văn hóa phi vật thể, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, và di sản tư liệu.
Theo số liệu của Bộ Văn hóa thể thao và du lịch, đến nay cả nước có hơn 41.000 di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh; 130 di tích quốc gia đặc biệt, gần 4.000 di tích quốc gia, hơn 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố. Trong đó, các di tích Phật giáo có 15 di tích quốc gia đặc biệt, 829 di tích quốc gia, và hơn 3000 di tích cấp tỉnh, thành phố. Bộ Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu ký ức Thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và còn nhiều mộc bản ở các chùa đã được công nhận là bảo vật quốc gia mà chúng ta có niềm tin trong tương lai sẽ được UNESCO ghi danh thế giới. Di tích văn hóa Phật giáo chiếm khoảng 25-30% tổng số di tích trong cả nước.
ĐB Thiện cũng cho rằng, các ngôi chùa, vừa là cơ sở tôn giáo, vừa là di tích lịch sử văn hóa được Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam quy định là cơ sở tôn giáo, đặt dưới sự quản lý của các cấp Giáo hội; đồng thời Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 quy định đó là các cơ sở tôn giáo do Giáo hội Phật giáo Việt Nam trực tiếp quản lý, sử dụng, và là người đại diện cho chủ sở hữu cộng đồng. Do đó, dự thảo Luật cần quy định rõ ràng quyền, nghĩa vụ, và trách nhiệm của tổ chức tôn giáo trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trong những trường hợp này.
ĐB Thiện đề nghị Chính phủ cần có chiến lược hồi hương cổ vật, đưa di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam ở nước ngoài về nước. Để thực sự khuyến khích tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước phát hiện, mua, hiến tặng, chuyển giao cho Nhà nước di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam ở nước ngoài về nước thì dự thảo Luật cần tính đến việc quy định miễn các loại thuế, phí liên quan cho các di vật, cổ vật được hồi hương về nước không vì mục đích trao đổi, mua bán, kinh doanh kiếm lời. Có như vậy mới thực sự thu hút nguồn lực cho hồi hương cổ vật về nước.
Theo ĐB Huỳnh Thị Phúc (Đoàn Bà Rịa-Vũng Tàu), Ban soạn thảo cần xem xét, bổ sung tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện công việc liên quan đến lĩnh vực lịch sử cùng với các tổ chức, cá nhân như các hội trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật, khoa học công nghệ.
“Ngoài Hội Khoa học và công nghệ thì Hội Khoa học lịch sử từ Trung ương đến địa phương đã và đang tham gia tích cực các hoạt động nghiên cứu, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cũng như khi tiến hành các công việc giám định di vật, cổ vật. Điều 39 dự thảo Luật có quy định yêu cầu chuyên môn khi giám định có liên quan đến lịch sử niên đại của di vật, cổ vật. Cần xem xét bổ sung nội dung này”-bà Phúc nói.
Về công tác bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa, theo bà Phúc, công tác này không chỉ là những nhóm nhiệm vụ tu bổ, phục hồi, chống nguy cơ xuống cấp di sản mà còn phải quan tâm đến nhiệm vụ, giải pháp phát huy tốt nhất giá trị di sản; đồng thời thực hiện đầy đủ và trách nhiệm các biện pháp được cam kết về bảo vệ di sản văn hóa.
Nghiên cứu Điều 63 tại dự thảo Luật về nhiệm vụ của bảo tàng; Điều 41, 44, 48 về quản lý, bảo vệ, bảo quản, trưng bày di vật, cổ vật và thực trạng nhiều hiện vật sau khi được khai quật, thu thập chưa thực sự được bảo vệ, bảo quản, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật trong môi trường, phù hợp với các yêu cầu về quản lý, trưng bày hiện vật, bà Phúc kiến nghị, dự thảo Luật cần quy định chặt chẽ, cụ thể hơn về điều kiện, trách nhiệm quản lý, bảo vệ, bảo quản, trưng bày di vật, cổ vật, bảo vật.