Căn cứ đánh giá về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu
Đơn vị của ông Vũ Anh Tuấn (Cao Bằng) gặp vướng mắc về việc đánh giá tính bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu khi đánh giá hồ sơ dự thầu gói thầu thẩm tra thiết kế bản vẽ thi công dự án Z. Ông Tuấn đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn tháo gỡ tình huống này.
Công ty A và công ty B là hai đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở X trên địa bàn tỉnh (2 công ty là đơn vị sự nghiệp có thu, tự chủ 100%. Tuy nhiên vẫn chịu quản lý về tổ chức, nhân sự của Sở X). Công ty A là đơn vị tư vấn thiết kế dự án Z. Công ty B là đơn vị tham gia đấu thầu gói thầu thẩm tra dự án Z.
Ông Tuấn hỏi, trường hợp này công ty B có vi phạm bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu hay không?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau:
Điểm b, Khoản 2, Điều 6 Luật Đấu thầu quy định nhà thầu tham dự thầu phải độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với các nhà thầu tư vấn lập, thẩm tra, thẩm định hồ sơ thiết kế, dự toán; lập, thẩm định hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu; đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất; thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu gói thầu đó.
Khoản 4, Điều 2 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định nhà thầu được đánh giá độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với nhà thầu khác; với nhà thầu tư vấn; với chủ đầu tư, bên mời thầu quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 6 của Luật Đấu thầu khi đáp ứng các điều kiện sau đây:
(i) Không cùng thuộc một cơ quan hoặc tổ chức trực tiếp quản lý đối với đơn vị sự nghiệp;
(ii) Nhà thầu với chủ đầu tư, bên mời thầu không có cổ phần hoặc vốn góp trên 30% của nhau;
(iii) Nhà thầu không có cổ phần hoặc vốn góp trên 20% của nhau khi cùng tham dự thầu trong một gói thầu đối với đấu thầu hạn chế;
(iv) Nhà thầu tham dự thầu với nhà thầu tư vấn cho gói thầu đó không có cổ phần hoặc vốn góp của nhau; không cùng có cổ phần hoặc vốn góp trên 20% của một tổ chức, cá nhân khác với từng bên.
Đối với vấn đề của ông Tuấn, nhà thầu tham dự thầu phải đáp ứng quy định về bảo đảm cạnh tranh như nêu trên.