Cần giải pháp ứng phó lâu dài trước diễn biến sụt, lún đất

Sụt, lún đất diễn biến ngày càng nghiêm trọng không chỉ do tác động của biến đổi khí hậu mà còn từ việc khai thác nước ngầm quá mức, nền địa chất yếu, hoạt động giao thông tĩnh và độ nén từ các công trình dân dụng trong quá trình đô thị hóa.

Công nhân Công ty cổ phần cấp nước Gia Định trám, lấp một giếng khoan tại phường Phú Nhuận nhằm hạn chế những tác động tiêu cực do hiện tượng mạch nước ngầm sụt giảm. (Ảnh QUÝ HIỀN)

Công nhân Công ty cổ phần cấp nước Gia Định trám, lấp một giếng khoan tại phường Phú Nhuận nhằm hạn chế những tác động tiêu cực do hiện tượng mạch nước ngầm sụt giảm. (Ảnh QUÝ HIỀN)

Do đó, cần được nhận diện kỹ lưỡng để có giải pháp ứng phó kịp thời nhằm hạn chế thấp nhất những tác động tiêu cực.

Nhận diện nguyên nhân

Thời gian qua, Công ty Cổ phần cấp nước Gia Định đã phối hợp chính quyền địa phương trên địa bàn thành phố tuyên truyền, vận động các hộ dân để trám, lấp 192 giếng (tổng số thống kê được là 800 giếng). Chỉ tính riêng địa bàn phường Phú Nhuận, hiện vẫn còn khoảng 170 hộ dân có giếng khoan. Phó Giám đốc Công ty Đặng Ngọc Hà cho biết: Tuy các đơn vị đã tích cực tuyên truyền vận động nhưng tình trạng người dân khai thác nước ngầm để sử dụng khiến nguy cơ suy giảm mực nước, gây sụt lún đất. Thực tế cho thấy, không chỉ hộ dân mà các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp cũng khai thác và sử dụng khối lượng lớn nguồn nước ngầm. Trong đó, nhiều đơn vị đã bị Sở Nông nghiệp và Môi trường không gia hạn cấp phép hoặc xem xét đóng cửa hệ thống giếng khoan nếu không chứng minh được lượng nước khai thác phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh… Mới đây, ông Võ Văn Tỵ, ngụ tại 525/84 Huỳnh Văn Bánh, phường Phú Nhuận đã đồng ý để cơ quan chức năng thực hiện việc trám, lấp giếng khoan của gia đình sau hơn 20 năm sử dụng. Ông Tỵ cho hay, giếng này ông khoan sâu 60 m, vào thời điểm nguồn nước máy rất yếu chỉ đủ để ăn uống, còn sinh hoạt phải nhờ giếng khoan là chính. Dần dần hệ thống cấp nước được đầu tư, nguồn nước dồi dào cho nên bây giờ nước giếng khoan cũng ít khi dùng đến.

Bên cạnh khai thác nước ngầm quá mức, hoạt động giao thông tĩnh và độ nén từ các công trình dân dụng, tốc độ đô thị hóa cũng là những nguyên nhân khiến tình trạng sụt, lún diễn biến ngày càng nghiêm trọng. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Trung Chơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển bền vững, Trường đại học Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ, theo nghiên cứu về sụt, lún đất tại thành phố Bắc Kinh, Trung Quốc của Chaofan Zhou và cộng sự công bố năm 2019, tỷ lệ phần trăm từ các nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng và gây nên tình trạng sụt lún là: Yếu tố địa chất chiếm 30,58%, nước dưới đất (địa chất thủy văn) chiếm 30,32%, tải trọng động (gồm đường bộ, đường sắt, đường sắt đô thị…) chiếm 25,64% và tải trọng tĩnh (nhà cao tầng, đô thị hóa…) chiếm 13, 46%.

Triển khai giải pháp ứng phó đồng bộ

Sụt, lún đất là hiện tượng gây nên thách thức cho quá trình phát triển; đặc biệt với một đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, đây còn là vấn đề đáng lo ngại. Theo khảo sát, tình trạng sụt lún tại thành phố bắt đầu diễn ra liên tục từ năm 1990 đến nay, với độ lún tích lũy qua các năm ước tính khoảng 1m. Trong đó, tốc độ lún trung bình năm rơi vào khoảng 2-5 cm, riêng tại các vị trí có các công trình thương mại, tòa nhà cao tầng con số này là khoảng 7-8cm. Tình trạng sụt lún đang tỷ lệ nghịch với nước biển dâng (mỗi năm 1 cm) gây nên tình trạng "chìm dần" đối với thành phố; trong đó, những nguy cơ, tác động đối với sự phát triển bền vững của thành phố là rất hiện hữu.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Trung Chơn, thực tế khách quan này cần thành phố phải có giải pháp ứng phó lâu dài. Cùng với các hiện tượng cực đoan của thời tiết, sụt lún đất dù diễn ra chậm nhưng tác động rất lớn đến cơ sở hạ tầng, đời sống dân sinh. Thành phố Hồ Chí Minh được xếp vào nhóm 2/10 thành phố "đang chìm" nhanh nhất thế giới cho nên công tác giám sát, mô phỏng và dự báo để có giải pháp thích nghi là rất quan trọng và cấp thiết. Theo các chuyên gia, thành phố cần xây dựng hệ thống giám sát và dự báo sụt lún nền đất thường xuyên, áp dụng công nghệ hiện đại nhằm hỗ trợ chính quyền đưa ra quyết sách phù hợp.

Chung tay thực hiện vấn đề này, đồng thời triển khai các giải pháp bảo vệ nguồn nước ngầm của thành phố, Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn đặt mục tiêu, đến năm 2025 đã giảm việc sử dụng, khai thác nước ngầm tại các trạm và giếng do đơn vị quản lý từ 100.000m3/ngày xuống còn 36.000m3/ngày và lộ trình sẽ giảm xuống còn 30.000m3/ngày. Đơn vị cũng đã trám, lấp giếng không khai thác và đang lập dự án để thực hiện đối với nhiều giếng khác. Trong đó, Xí nghiệp Cấp nước sinh hoạt nông thôn thành phố đã hoàn thành trám, lấp 166 giếng tại 79 trạm. Hiện đang tiếp tục rà soát, tổng hợp các giếng hư, không sử dụng để trám, lấp; đồng thời thực hiện nghiêm các quy định về hạn chế cấp phép khai thác nước ngầm trên địa bàn.

Các chuyên gia cũng nhận định, bên cạnh giải pháp quản lý khai thác nước ngầm, thành phố cần thực hiện quy hoạch với mô hình đô thị vệ tinh để phân bổ tải trọng tĩnh một cách khoa học, tăng diện tích đất thấm một cách tự nhiên. Thành phố Hồ Chí Minh bản chất là đô thị sông nước, tuy nhiên, đô thị hóa đã "lấy" đi một diện tích rất lớn sông, kênh rạch khiến tình trạng ngập lụt diễn biến ngày càng phức tạp. Một giải pháp thuận thiên được nhiều chuyên gia, nhà khoa học khuyến nghị nhiều năm nay là thích ứng thông qua các quy hoạch xanh, xây dựng và phát triển không gian dành cho nước và áp dụng các tiêu chí đô thị bền vững ■

XUÂN PHÚ và QUÝ HIỀN

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/can-giai-phap-ung-pho-lau-dai-truoc-dien-bien-sut-lun-dat-post909800.html