Cần rà soát, đánh giá các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển nông nghiệp
Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 5, sáng 31-5, Quốc hội tiến hành thảo luận ở hội trường về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2022; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2023. Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tỉnh Tiền Giang tiếp tục có nhiều ý kiến thảo luận tại hội trường.
Tại phiên thảo luận, các ĐBQH tỉnh Tiền Giang quan tâm đến nội dung tổ chức sản xuất nông nghiệp, xây dựng chuỗi liên kết ổn định, bền vững.
Phát biểu thảo luận tại hội trường, đại biểu Tạ Minh Tâm - Phó trưởng Đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh Tiền Giang cho rằng, được vinh danh là trụ đỡ của nền kinh tế trong thời gian chịu sự tác động phức tạp của dịch bệnh Covid-19, đi vào phục hồi và phát triển kinh tế, được sự tập trung chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; vai trò chủ trì của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với các cơ quan quản lý nhà nước trung ương, nông nghiệp đạt mức tăng trưởng khá; năng suất, sản lượng nhiều sản phẩm chủ lực tăng, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, góp phần vào tăng trưởng chung.
Trong thực hiện chính sách khuyến khích, thúc đẩy hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, với trọng tâm là Nghị định 98 của Chính phủ khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Qua gần 5 năm thực hiện, đến nay đã có trên 2 ngàn chuỗi liên kết với 744 hợp tác xã (HTX), 349 doanh nghiệp và trên 107 ngàn hộ nông dân tham gia.
Các địa phương đã phê duyệt 119 sản phẩm chủ lực, trong đó có 13 loại sản phẩm thuộc nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia. Ngân sách đã bố trí hàng ngàn tỷ đồng để hỗ trợ thực hiện các dự án, kế hoạch liên kết theo Nghị định 98. Cả nước đã phát triển trên 9,5 ngàn sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên. Nhiều thương hiệu nông sản Việt Nam đã và đang được xây dựng và phát triển bằng nhiều đề án, cụ thể như: Thương hiệu gạo quốc gia, thương hiệu cá tra, thương hiệu tôm, thương hiệu cà phê.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, đại biểu Tạ Minh Tâm cho rằng, còn nhiều vướng mắc, kết quả giám sát giải quyết kiến nghị của cử tri cùng với nhiều lần tiếp xúc cử tri cho thấy nhiều cử tri kiến nghị về các vướng mắc từ tổ chức sản xuất, về tính liên kết, sự bấp bênh trong sản xuất nông nghiệp, về thị trường, giá cả và khả năng tiêu thụ khi người nông dân đã dày công nuôi trồng, chăm bón...
Cử tri băn khoăn về tốc độ cơ cấu lại ngành Nông nghiệp, về tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, mạnh mún; sản xuất tự phát, sức cạnh tranh còn thấp. Diện tích được công nhận các tiêu chuẩn theo yêu cầu thị trường còn thấp. Hệ thống kinh tế hợp tác trong vai trò dẫn dắt, tập hợp, chủ trì liên kết, phối hợp nhiều yếu tố cần có sự tập trung cao.
Đến nay cả nước mới có 28/63 tỉnh, thành phố phê duyệt dự án liên kết; 16/63 tỉnh phê duyệt kế hoạch hỗ trợ liên kết. Cả hai số liệu: Số hộ nông dân tham gia chuỗi liên kết và tỷ lệ HTX tham gia chủ trì chuỗi liên kết chưa cao; 188 ngàn hộ nông dân tham gia liên kết trên 9 triệu hộ nông dân; xấp xĩ 1.200 HTX trên 19 ngàn HTX nông nghiệp tham gia liên kết. Mức độ hỗ trợ hạ tầng phục vụ liên kết cũng chỉ mang tính tương đối, trung bình 3,3 tỷ đồng một dự án trên định mức hỗ trợ tối đa là 10 tỷ đồng.
Từ những số liệu nêu trên cho thấy, còn nhiều dư địa đối với các chính sách hỗ trợ xác đáng và hợp lý trong khuyến khích, tạo lập các chuỗi liên kết đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hóa…
Trong triển khai thực hiện thúc đẩy hình thành các liên kết, một số vướng mắc đã được chỉ ra, từ mức độ đối ứng theo yêu cầu và khả năng đáp ứng của các chủ thể - nhất là chủ thể thuộc thành phần kinh tế hợp tác. Nguồn tài chính thực hiện các chính sách hỗ trợ quy định từ các nguồn khác nhau trong khi thời gian thực hiện kéo dài. Quy trình hồ sơ, thủ tục phức tạp, phần nào hạn chế khả năng tiếp cận của các đối tượng có nhu cầu.
Các HTX được kỳ vọng là chủ thể chính tham gia xây dựng các chuỗi liên kết gặp nhiều khó khăn do hạn chế năng lực tài chính, kỹ thuật, quản trị điều hành. Còn tình trạng doanh nghiệp chưa chú trọng đầu tư phát triển vùng nguyên liệu.
Đại biểu Tạ Minh Tâm cho rằng, các liên kết bền vững giữa các chủ thể liên quan sản xuất nông nghiệp từ người nông dân đến thương nhân, nhà chế biến không thể chỉ là sản phẩm của chính sách thúc đẩy, khuyến khích, hỗ trợ mà Nghị định 98 là nòng cốt hiện nay, cùng với đó phải là sản phẩm của một khung pháp lý nhiều chiều đồng bộ. Từ chính sách đất đai, pháp luật về kinh tế hợp tác, chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp - nông thôn, chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến, cụm chế biến gắn với vùng nguyên liệu; chính sách hỗ trợ doanh nghiệp kịp thời trong điều kiện nhiều áp lực hiện nay...
Để góp phần thực hiện yêu cầu phát triển nông nghiệp - nông thôn bền vững theo yêu cầu của nghị quyết Quốc hội, đặc biệt trước dự báo nền kinh tế nước ta và ngành Nông nghiệp có thể tiếp tục đối mặt khó khăn, thách thức. Đại biểu Tạ Minh Tâm kiến nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư quan tâm rà soát, đánh giá kết quả thực hiện thời gian qua để có điều chỉnh hợp lý các chính sách khuyến khích, thúc đẩy, hỗ trợ tại Nghị định 98 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Trong đó, tập trung các chính sách về đất đai, hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho các chủ thể liên kết thực hiện chế biến, thương mại và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, đào tạo cán bộ và đào tạo nghề cho lao động doanh nghiệp, HTX; chính sách hỗ trợ phòng ngừa rủi ro thiên tai, dịch bệnh; thúc đẩy thực hiện chính sách bảo hiểm nông nghiệp; hỗ trợ chuyển đổi số...
Việc ban hành chính sách hỗ trợ phải cụ thể, rõ ràng, đảm bảo các nguồn lực để thực hiện là yếu tố then chốt để việc thực thi chính sách có hiệu quả, đồng thời tạo sự thống nhất trong triển khai thực hiện cũng như đối tượng hưởng lợi tiếp cận chính sách được dễ dàng và đúng quy định.
Cùng với đó, rà soát, đánh giá kết quả thực hiện, có điều chỉnh hợp lý các chính sách khuyến khích, hỗ trợ tại Nghị định 57 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Mở rộng số lượng, phát huy tiềm năng và lợi thế phát triển của doanh nghiệp trong nông nghiệp, để doanh nghiệp nông nghiệp thực sự giữ được vai trò trụ cột trong thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản nước ta theo như yêu cầu tại Nghị quyết 53 của Chính phủ về giải pháp khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả, an toàn và bền vững.
Chú trọng hỗ trợ chế biến nông sản gắn với thị trường và vùng nguyên liệu. Hạn chế tình trạng doanh nghiệp không quan tâm đến phát triển vùng nguyên liệu (hoặc dù muốn nhưng thực hiện khó khăn).
Tiếp tục có các chính sách hỗ trợ phù hợp các tổ chức kinh tế hợp tác bảo đảm khả năng chủ trì thực hiện liên kết; đủ năng lực thực hiện kế hoạch, các dự án đặt ra. Sớm hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hợp tác xã sửa đổi cũng như dự kiến, chuẩn bị các nguồn lực đồng bộ thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ mà Luật đã thể chế; bảo đảm khi Luật có hiệu lực tạo được sức bật cho các tổ chức kinh tế hợp tác như kỳ vọng khi xây dựng Luật.
Góp phần cùng các hệ thống chính sách liên quan đẩy nhanh quá trình nâng chất, mở rộng các chuỗi liên kết trong nông nghiệp, là cơ sở góp phần giải quyết căn cơ những băn khoăn của cử tri trong lĩnh vực nông nghiệp.