Cần thêm chế tài bảo vệ quyền lợi phụ nữ, trẻ em và người yếu thế

Hơn 10 năm thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, các quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình đã từng bước đi vào đời sống, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng giới, quyền sở hữu tài sản và sự ổn định của gia đình - tế bào nền tảng của xã hội.

Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật, đặc biệt qua lăng kính hoạt động công chứng - thiết chế phòng ngừa tranh chấp và bảo đảm an toàn pháp lý cho giao dịch dân sự đang bộc lộ nhiều khoảng trống, vướng mắc cần được nhận diện và kịp thời hoàn thiện.

Công chứng - “điểm chạm” của pháp luật hôn nhân và gia đình với đời sống

Khách hàng đến giao dịch tại Văn phòng Công chứng Phùng Quân. Ảnh: Hà Phong

Khách hàng đến giao dịch tại Văn phòng Công chứng Phùng Quân. Ảnh: Hà Phong

Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ hôn nhân và gia đình không chỉ dừng lại ở các giá trị nhân thân mà ngày càng gắn chặt với quan hệ tài sản, giao dịch dân sự và hoạt động đầu tư, kinh doanh. Công chứng, với vai trò kiểm soát tính hợp pháp của giao dịch, trở thành khâu trung gian đặc biệt quan trọng trong việc “hiện thực hóa” các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.

Theo thống kê của Hiệp hội Công chứng viên Việt Nam, phần lớn hợp đồng, giao dịch được công chứng hằng năm liên quan trực tiếp đến tài sản của vợ chồng, đặc biệt là bất động sản, thế chấp, tặng cho, chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Không ít tranh chấp phát sinh sau này có nguyên nhân từ việc xác định chưa rõ ràng chế độ tài sản, quyền định đoạt hoặc tư cách tham gia giao dịch ngay từ thời điểm công chứng.

Từ thực tiễn hành nghề, Tổng Thư ký Hiệp hội Công chứng viên Việt Nam Đào Duy An nhận định: “Hoạt động công chứng là nơi phản ánh trung thực nhất những điểm mạnh và điểm yếu của pháp luật hôn nhân và gia đình. Những quy định chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ sẽ bộc lộ ngay khi được áp dụng vào giao dịch cụ thể, đặc biệt là các giao dịch liên quan đến tài sản vợ chồng”.

Có điểm tiến bộ và cả khoảng trống

So với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Luật năm 2014 thể hiện bước tiến đáng kể trong tư duy lập pháp, nhất là trong việc ghi nhận hai chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định và theo thỏa thuận. Việc cho phép vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản phù hợp thể hiện sự tôn trọng quyền tự do định đoạt và tiệm cận thông lệ quốc tế.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cũng thể hiện rõ hơn nguyên tắc bảo vệ người yếu thế, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, thông qua các quy định về đại diện, quản lý tài sản của con chưa thành niên. Đây là những điểm tiến bộ được cộng đồng công chứng viên ghi nhận trong quá trình áp dụng pháp luật.

Dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng thực tiễn công chứng cho thấy hiệu quả của pháp luật hôn nhân và gia đình vẫn chưa tương xứng với kỳ vọng, do còn tồn tại không ít bất cập.

Nguyên tắc suy đoán tài sản chung nhằm bảo vệ bên yếu thế trong hôn nhân, song trong điều kiện chưa có cơ chế đăng ký và công khai chế độ tài sản vợ chồng, nguyên tắc này lại trở thành nguồn gốc của rủi ro pháp lý. Nhiều tài sản có nguồn gốc hình thành trước hôn nhân nhưng hoàn tất thủ tục pháp lý trong thời kỳ hôn nhân khiến công chứng viên lúng túng khi xác định quyền định đoạt.

Ông Đào Duy An chỉ rõ: “Công chứng viên không có thẩm quyền điều tra hay thu thập chứng cứ như Tòa án. Khi pháp luật chưa tạo ra công cụ pháp lý để xác minh nguồn gốc tài sản, công chứng viên buộc phải lựa chọn cách tiếp cận thận trọng, coi tài sản là tài sản chung, từ đó làm hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng hợp pháp của cá nhân”.

Bất cập nữa quy định về quyền định đoạt tài sản chung chưa thật sự rõ ràng. Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 liệt kê các trường hợp phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng. Tuy nhiên, cách quy định này dễ dẫn đến cách hiểu ngược lại rằng ngoài các trường hợp được liệt kê, một bên có thể tự ý định đoạt tài sản chung. Sự thiếu thống nhất trong cách hiểu và áp dụng giữa các địa phương đã làm gia tăng rủi ro tranh chấp và đặt công chứng viên vào tình thế khó xử.

Thực tiễn cũng cho thấy, việc cả cha và mẹ đều là người đại diện theo pháp luật của con, trong khi Bộ luật Dân sự hạn chế người đại diện giao dịch với chính mình, đã tạo ra “điểm nghẽn” trong thực tiễn công chứng. Nhiều giao dịch tặng cho tài sản cho con chưa thành niên - về bản chất mang lại lợi ích cho trẻ - vẫn không thể thực hiện do thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng.

Cùng đó, sự gia tăng các cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài đặt ra yêu cầu mới cho pháp luật. Tuy nhiên, các quy định hiện hành còn mang tính nguyên tắc, thiếu hướng dẫn cụ thể về chế độ tài sản, công nhận giấy tờ nước ngoài và xử lý xung đột pháp luật, khiến hoạt động công chứng tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Xây dựng luật đồng bộ, khả thi và gắn chặt với thực tiễn

Bức tranh toàn cảnh trên cho thấy, việc sửa đổi pháp luật hôn nhân và gia đình cần được tiếp cận theo hướng đồng bộ, khả thi và gắn chặt với thực tiễn áp dụng. Cần làm rõ hơn các tiêu chí xác định tài sản riêng, đặc biệt đối với tài sản có nguồn gốc hình thành qua nhiều giai đoạn khác nhau. Đồng thời, phải bảo đảm sự thống nhất giữa Luật Hôn nhân và Gia đình với Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra từ thực tiễn công chứng là cần hoàn thiện các quy định về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo hướng cân bằng giữa bảo vệ lợi ích gia đình và bảo đảm tính linh hoạt của giao dịch dân sự. Việc đầu tiên, cần rà soát và làm rõ quy định về các trường hợp bắt buộc phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng khi định đoạt tài sản chung. Việc liệt kê như hiện nay dễ dẫn đến cách hiểu ngược lại trong thực tiễn áp dụng. Pháp luật nên tiếp cận theo hướng xác định nguyên tắc chung về sự tham gia của cả hai vợ chồng đối với các giao dịch có giá trị lớn hoặc có ảnh hưởng đáng kể đến đời sống kinh tế của gia đình, đồng thời giao cho văn bản hướng dẫn cụ thể hóa các tiêu chí áp dụng. Bổ sung cơ chế pháp lý linh hoạt cho phép vợ chồng thỏa thuận phân công quản lý và định đoạt một khối tài sản nhất định trong thời kỳ hôn nhân, không chỉ giới hạn trong trường hợp đưa tài sản vào kinh doanh. Cơ chế này sẽ đáp ứng nhu cầu thực tiễn khi một bên vợ hoặc chồng vắng mặt dài ngày, đồng thời giảm bớt áp lực thủ tục và rủi ro pháp lý trong hoạt động công chứng.

Tổng Thư ký Hiệp hội Công chứng viên Việt Nam Đào Duy An cho biết, một kiến nghị có tính nền tảng khác được nhiều công chứng viên đề xuất là xây dựng cơ chế đăng ký và công khai chế độ tài sản vợ chồng, gắn với đăng ký kết hôn và cơ sở dữ liệu hộ tịch. Bởi nếu thông tin về chế độ tài sản được công khai ở mức độ phù hợp, không chỉ công chứng viên mà cả bên thứ ba đều có căn cứ pháp lý rõ ràng hơn để bảo vệ quyền lợi của mình. Ngoài ra, cần có cơ chế pháp lý linh hoạt hơn đối với giao dịch liên quan đến tài sản của con chưa thành niên, bảo đảm nguyên tắc lợi ích tốt nhất của trẻ em nhưng không làm ách tắc các giao dịch hợp pháp. Đối với hôn nhân có yếu tố nước ngoài, việc bổ sung các quy định cụ thể về xung đột pháp luật và công nhận giấy tờ nước ngoài là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh hội nhập.

Khi các quy định về hôn nhân và gia đình được thiết kế đồng bộ, minh bạch và có cơ chế bảo đảm thi hành hiệu quả, công chứng sẽ tiếp tục phát huy vai trò là “hàng rào phòng ngừa” tranh chấp. Từ đó, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, đặc biệt là với phụ nữ, trẻ em và các chủ thể yếu thế, đồng thời củng cố nền tảng ổn định, bền vững của gia đình và xã hội.

Hà Phong

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/can-them-che-tai-bao-ve-quyen-loi-phu-nu-tre-em-va-nguoi-yeu-the-728248.html