Cần thu hẹp khoảng cách số để chuyển đổi số thực chất, bền vững
Chiều 6/11, thảo luận tại Tổ 6 ( Đoàn ĐBQH các tỉnh Lạng Sơn, Đồng Nai, TP. Huế) về dự án Luật Chuyển đổi số, các ĐBQH cho rằng, việc ban hành Luật là cần thiết nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho phát triển và quản lý lĩnh vực công nghệ cao, bảo đảm chuyển đổi số đi vào thực chất, đồng thời thu hẹp khoảng cách số giữa các vùng, miền, nhóm đối tượng trong xã hội.
Đầu tư hạ tầng số cho vùng khó khăn – chìa khóa thu hẹp khoảng cách số
Góp ý vào dự án Luật Chuyển đổi số, các ĐBQH tổ 6 đều thống nhất rằng, để chuyển đổi số thực sự trở thành động lực phát triển, dự thảo Luật cần hoàn thiện theo hướng mở rộng không gian đổi mới sáng tạo, bảo đảm công bằng trong tiếp cận hạ tầng số và dịch vụ số, đồng thời thiết lập cơ chế quản lý linh hoạt, minh bạch, phù hợp với tốc độ phát triển của công nghệ hiện nay.

Quang cảnh phiên họp tổ chiều 6/11. Ảnh: Hải Thanh
Theo ĐBQH Nguyễn Hải Nam (TP. Huế), chúng ta cần xây dựng hệ thống pháp lý đồng bộ để quản lý, thúc đẩy phát triển công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ blockchain và tài sản số. Đại biểu cho biết, Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia có giá trị giao dịch tiền điện tử lớn, vì vậy cần có khuôn khổ pháp lý phù hợp để vừa khai thác tiềm năng, vừa bảo vệ nhà đầu tư. Đại biểu đề nghị, dự thảo Luật Chuyển đổi số cần nghiên cứu, có quy định về ứng dụng công nghệ blockchain trong quản lý hành chính, nhất là trong lĩnh vực đất đai, sổ đỏ; đồng thời đề nghị xem xét lại các quy định về điều kiện vốn tối thiểu đối với doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ (như mức 10.000 tỷ đồng) để tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo. Cùng với đó, cần có chính sách khuyến khích phát triển công nghệ cao, thu hút nhân lực chất lượng cao, tránh phụ thuộc vào mô hình kinh tế gia công và tài nguyên truyền thống, nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”.

ĐBQH Nguyễn Hải Nam (TP. Huế) phát biểu thảo luận tại tổ chiều 6/11. Ảnh: Hồ Long
Đề cập đến vấn đề phát triển hạ tầng số vùng khó khăn, ĐBQH Chu Thị Hồng Thái (Lạng Sơn) cho rằng, dự thảo Luật Chuyển đổi số chưa đề cập rõ nội dung này. Đại biểu đặt vấn đề: nếu hạ tầng số ở vùng sâu, vùng xa không được đầu tư, khoảng cách số giữa các vùng sẽ ngày càng bị nới rộng. Theo đó, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo cần bổ sung quy định cụ thể về chính sách phát triển hạ tầng số ở miền núi, vùng khó khăn, bảo đảm người dân được tiếp cận bình đẳng với các dịch vụ số và cơ hội phát triển.

ĐBQH Chu Thị Hồng Thái (Lạng Sơn) phát biểu về dự án Luật Chuyển đổi số. Ảnh: Hồ Long
Đồng tình với ý kiến trên, ĐBQH Phạm Trọng Nghĩa (Lạng Sơn) cũng cho rằng dự thảo Luật đã có khái niệm “khoảng cách số”, song mới dừng ở mức định nghĩa mà chưa có quy định cụ thể để thu hẹp khoảng cách này. Do đó, đại biểu đề nghị bổ sung một điều riêng về chính sách của Nhà nước nhằm thu hẹp khoảng cách số, trong đó xác định rõ giải pháp hỗ trợ các nhóm yếu thế, vùng khó khăn, người dân chưa có điều kiện truy cập Internet hoặc thiết bị thông minh. Theo đại biểu, nếu thiếu cơ chế bảo đảm tiếp cận công bằng, càng đẩy mạnh chuyển đổi số, khoảng cách giữa các nhóm dân cư sẽ càng bị nới rộng.

ĐBQH Phạm Trọng Nghĩa (Lạng Sơn) phát biểu tại tổ chiều 6/11. Ảnh: Hồ Long
Về nội dung này, ĐBQH Điểu Huỳnh Sang (Đồng Nai) cũng đề nghị chỉnh lý khoản 10 Điều 3 dự thảo Luật để khái niệm “hạ tầng số” bao quát hơn, phản ánh đầy đủ các yếu tố công nghệ mới như thiết bị thông minh, cảm biến, camera có tích hợp trí tuệ nhân tạo.
Bảo đảm thống nhất nguyên tắc “hậu kiểm”, tạo động lực thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện
Liên quan đến trách nhiệm minh bạch thuật toán của nền tảng số trung gian, ĐBQH Điểu Huỳnh Sang (Đồng Nai) nêu rõ: dự thảo Luật hiện thể hiện xu hướng “tiền kiểm” đối với doanh nghiệp có quy mô lớn, chưa phù hợp với nguyên tắc “hậu kiểm” theo Luật Cạnh tranh. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo rà soát, chỉnh lý bảo đảm thống nhất với quy định hiện hành. Đồng thời, đại biểu đề nghị bổ sung chính sách đặc thù thu hút, trọng dụng chuyên gia chuyển đổi số, không chỉ trong cơ quan nhà nước mà cả trong doanh nghiệp, nhằm tạo động lực thúc đẩy chuyển đổi số toàn xã hội.

ĐBQH Điểu Huỳnh Sang (Đồng Nai) phát biểu tại thảo luận tổ 6. Ảnh: Hồ Long
Liên quan đến hành vi bị nghiêm cấm trong chuyển đổi số ( khoản 2 Điều 5), đại biểu đề nghị bổ sung thêm các hành vi bị nghiêm cấm như: vi phạm về sử dụng dữ liệu mở và chia sẻ dữ liệu như khai thác, chỉnh sửa hoặc công bố dữ liệu mở của Nhà nước không đúng quy định về bản quyền, phạm vi sử dụng hoặc mục đích chia sẻ; can thiệp vào mô hình trí tuệ nhân tạo hoặc cơ chế học máy của hệ thống số nhằm thay đổi kết quả xử lý dữ liệu gây sai lệch, thiên vị dữ liệu hoặc tổn hại cho tổ chức, cá nhân.
Ngoài ra, đại biểu cũng đề nghị cần ban hành chính sách đặc thù thu hút, trọng dụng chuyên gia chuyển đổi số không chỉ trong cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, mà mở rộng cho cả khu vực tư nhân, nhằm thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể và động lực của quá trình này.

ĐBQH Trịnh Xuân An (Đồng Nai) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Từ góc độ kỹ thuật lập pháp, ĐBQH Trịnh Xuân An (Đồng Nai) nhận định, tinh thần của dự thảo Luật Chuyển đổi số thể hiện rõ chủ trương, nghị quyết của Đảng, song cần được biên tập cô đọng, kỹ lưỡng hơn để tránh trùng lặp và bảo đảm tính khả thi. Theo đại biểu, đây là luật khung, luật nguyên tắc, không nên đi quá sâu vào các nội dung cụ thể đã được quy định tại các luật chuyên ngành. Cấu trúc của Luật cần được xây dựng bám sát khái niệm “chuyển đổi số”, từ đó quy định phạm vi điều chỉnh, thể chế và chính sách phù hợp.














