CẦN THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM HOÀN THÀNH MỤC TÊU KẾ HOẠCH CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ
Chiều ngày 27/9, tiếp tục phiên họp toàn thể lần thứ 13, dưới sự chủ trì của Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội Vũ Hồng Thanh, Ủy ban Kinh tế đã thẩm tra báo cáo Đánh giá giữa kỳ kết quả thực hiện Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025.
Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 đề ra các mục tiêu và 5 nhóm nhiệm vụ trọng tâm cho giai đoạn 2021-2025. Triển khai thực hiện Nghị quyết, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 02/4/2022 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, giao 30 chỉ tiêu và 102 nhiệm vụ xây dựng chương trình, đề án, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện. Các bộ, ngành, địa phương đã ban hành chương trình hành động, với các mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp cụ thể. Toàn bộ 102 nhiệm vụ xây dựng các Chương trình, Đề án tại Nghị quyết số 54/NQ-CP đã và đang được triển khai thực hiện, trong đó có 37/102 (chiếm 36,3%) nhiệm vụ đã hoàn thành, 28/102 nhiệm vụ (chiếm 27,4%) đã trình cấp có thẩm quyền, hiện đang chỉnh sửa bổ sung hoàn thiện, 37/102 nhiệm vụ (chiếm 36,3%) đang triển khai theo kế hoạch.
Theo tờ trình của Chính phủ, đến nay, sau gần hai năm thực hiện đã có 10 chỉ tiêu có khả năng hoàn thành. Một số chỉ tiêu có kết quả khả quan như: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân hai năm 2021-2022 so với GDP đạt 34,0-34,2% (mục tiêu đặt ra là 32-34%); năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng năm 2021 là 36,03%, năm 2022 ước khoảng 43,89%. Các nỗ lực hoàn thành mục tiêu đề ra đã bước đầu thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, số hóa, xanh hóa.
Tuy nhiên, Chính phủ cũng chỉ rõ, còn 13 trong số 23 chỉ tiêu rất khó hoàn thành. Đó là các chỉ tiêu về tốc độ tăng năng suất lao động bình quân năm 2021, 2022 đạt thấp, ước lần lượt đạt khoảng 4,58% và 4,75% và thấp hơn khá nhiều so với mục tiêu đặt ra là 6,5%; tốc độ tăng năng suất lao động của các vùng kinh tế trọng điểm năm 2022 bình quân ước đạt 5,33%, tốc độ tăng năng suất lao động của 3 trong 5 thành phố trực thuộc trung ương chưa đạt mục tiêu.
Tốc độ tăng năng suất lao động của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp, đạt 6,9% năm 2021 và 2,97% năm 2022 so với mục tiêu 6,5-7%/năm; chỉ tiêu về số lượng doanh nghiệp đạt thấp, đến cuối năm 2023 ước đạt khoảng 900 nghìn doanh nghiệp, còn thấp xa so với mục tiêu 1,5 triệu doanh nghiệp; chỉ tiêu về số lượng hợp tác xã (HTX) đến năm 2022 là 29.380 HTX, tính đến tháng 6 năm 2023 cả nước có khoảng 30.400 HTX (mục tiêu đặt ra đến năm 2025 là 35.000 HTX); số lượng hợp tác xã nông nghiệp (HTX NN) ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất tiêu thụ nông sản đến hết năm 2022 đạt 1.718 HTX (khó đạt mục tiêu 3.000 hợp tác xã); tỷ lệ HTX NN liên kết với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị đến hết 2022 đạt 21% (mục tiêu 35%). Các nhóm chỉ tiêu về xử lý nợ xấu[1] và đảm bảo an toàn vốn tại các tổ chức tín dụng mặc dù cơ bản vẫn trong tầm kiểm soát nhưng nhiều thách thức gia tăng.
Về kết quả thực hiện nhiệm vụ cơ cấu lại một số lĩnh vực trọng tâm đã đạt được một số kết quả, tạo dư địa cho chính sách tài khóa và tiền tệ được sử dụng linh hoạt, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng.
Trong đó, phải kể đến kết quả về cơ cấu lại đầu tư công với thể chế, pháp luật về đầu tư công được sửa đổi, hoàn thiện theo hướng đẩy mạnh phân công, phân cấp, quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh giải ngân các dự án, tăng khả năng hấp thụ vốn. Nhờ đó, lượng vốn đầu tư công giải ngân gia tăng, bù đắp cho nguồn vốn khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài bị chững lại, góp phần phục hồi tăng trưởng. Vốn đầu tư công được bố trí tập trung, từng bước khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, tập trung vào các dự án có tác động lan tỏa, nhất là hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn, thúc đẩy liên kết vùng. Chú trọng triển khai định hướng đầu tư công, kích hoạt các nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước, đẩy mạnh hợp tác công tư trong phát triển hạ tầng chiến lược; Công tác theo dõi, giám sát, đánh giá, thanh tra, kiểm tra tiếp tục được tăng cường, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng, vận hành Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư công, góp phần bảo đảm công khai, minh bạch trong đầu tư công.
Bên cạnh đó, một số chính sách quan trọng, tạo tiền đề cho quá trình cơ cấu lại NSNN tiếp tục được ban hành. Hệ thống luật pháp liên quan đang được nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ sung. Các chính sách về tài chính, thuế, chế độ thu, chi NSNN được chỉnh sửa, bổ sung, ban hành mới theo hướng hợp lý, tiết kiệm, phù hợp với tình hình thực tế và tiến trình thực hiện cam kết quốc tế. Các chính sách miễn, giảm thuế, phí, lệ phí tiếp tục được áp dụng để hỗ trợ doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh phục hồi. Gia tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển. Đảm bảo cân đối NSNN, nợ công trong ngưỡng cho phép.
Đồng thời đã từng bước xây dựng đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025. Tiếp tục tăng quy mô hệ thống các TCTD, củng cố, nâng cao năng lực tài chính, chất lượng quản trị, điều hành, từng bước hình thành đồng bộ các chuẩn mực, thiết chế an toàn phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Chú trọng kiểm soát các nhóm chỉ tiêu về xử lý nợ xấu; từng bước xử lý vấn đề sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các TCTD.
Về cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL), đã bước đầu được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn hơn. Các bộ, ngành, địa phương đã rà soát, phê duyệt “Đề án tự chủ đối với các ĐVSNCL” thuộc phạm vi quản lý. Việc chuyển các đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần đang được triển khai thực hiện. Các chính sách xã hội hóa trong các lĩnh vực sự nghiệp công đã từng bước được triển khai, huy động nguồn lực xã hội trong cung ứng và nâng cao chất lượng dịch vụ công.
Các loại thị trường về tài chính, Thị trường bất động sản, thị trường quyền sử dụng đất, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ tiếp tục được phát triển, chú trọng tính bền vững và tăng cường ứng dụng công nghệ số. Trong đó, thị trường tài chính, khung khổ thể chế, chính sách phát triển thị trường tài chính, trọng tâm là thị trường vốn tiếp tục được hoàn thiện, đảm bảo an toàn, lành mạnh, hiệu quả, phù hợp với bối cảnh. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp sau thời gian phát triển nóng giai đoạn 2019-2021 đã chậm lại nhưng dần đi đúng định hướng phát triển bền vững. Thị trường chứng khoán gặp nhiều khó khăn trước các biến động trên thị trường quốc tế nhưng đã dần hồi phục.
Thị trường bất động sản, thị trường quyền sử dụng đất đang được thể hóa cùng với hoàn thiện Luật Đất đai theo hướng cải thiện hiệu quả trong vận hành thị trường quyền sử dụng đất. Ban hành các chính sách thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội, cải thiện sự mất cân bằng trên thị trường, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của số đông người dân. Tập trung giám sát, các biện pháp xử lý kịp thời những hành vi thao túng, làm méo mó thị trường.
Đối với Thị trường lao động, pháp luật về lao động, việc làm, hệ thống thông tin, tiếp tục được hoàn thiện. Tiếp tục đổi mới giáo dục đại học, đẩy mạnh tự chủ giáo dục đại học, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, phát triển nhân lực chất lượng cao, nhân lực số, chú trọng đầu tư cho công tác dạy nghề;Tăng cường các hoạt động kết nối cung - cầu lao động, tổ chức các sàn giao dịch việc làm, tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động. Công nghệ số được thúc đẩy ứng dụng trong phát triển thị trường, hình thành các sàn giao dịch tập trung, đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả hơn.
Còn thị trường khoa học, công nghệ (KHCN) tiếp tục được thúc đẩy phát triển và từng bước phát huy vai trò cầu nối, gắn kết hoạt động KHCN với sản xuất, kinh doanh. Triển khai cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường KHCN. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện sàn giao dịch công nghệ điện tử.
Tờ trình Chính phủ cũng nêu rõ kết quả trong việc tiếp tục phát triển lực lượng doanh nghiệp; thúc đẩy kết nối giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Trong đó, cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tiếp tục được hoàn thiện bằng khung khổ pháp luật, cơ chế chính sách cơ cấu lại DNNN tiếp tục được ban hành. Tích cực tháo gỡ khó khăn, đưa nhiều dự án có vai trò quan trọng đi vào vận hành. Tiếp tục cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN, cải thiện hiệu quả hoạt động của các DNNN. Một số DNNN thể hiện được vai trò dẫn dắt trong một số lĩnh vực.
Đối với, phát triển lực lượng doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân, thúc đẩy chuyển đổi số, liên doanh, liên kết, nâng cao năng lực cạnh tranh, đã ban hành và triển khai các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp trong một số lĩnh vực như chuyển đổi số, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, Tiếp tục thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cắt giảm chi phí, thủ tục hành chính. Việc triển khai đồng bộ các giải pháp đã bước đầu đạt kết quả khả quan, số lượng doanh nghiệp tiếp tục tăng, doanh nghiệp từng bước phục hồi, một số doanh nghiệp đã mở rộng quy mô, từng bước khẳng định vai trò, vị thế ở trong nước và vươn ra thị trường thế giới.
Về thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế đang theo hướng số hóa, xanh hóa, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP tiếp tục gia tăng. Ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số trở nên phổ biến trong các ngành, lĩnh vực, địa phương, gia tăng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Tại phiên thẩm tra, các đại biểu đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ trong xây dựng báo cáo khá đầy đủ về tổng quan kết quả thực hiện quá trình tái cơ cấu sau 2 năm thực hiện. Tuy nhiên, các đại biểu cũng cho rằng Chính phủ cần đánh giá rõ nét hơn các tồn tại và hạn chế khiến 13/23 chỉ tiêu đến nay chưa hoàn thành. Trong đó, cần làm rõ các nguyên nhân khiến nguy cơ tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 khó đạt được. Các đại biểu nêu rõ những hạn chế, trong số 102 chương trình, đề án đề ra tại Nghị quyết số 54/NQ-CP mới có 37/102 (chiếm 36,3%) nhiệm vụ hoàn thành và ban hành văn bản. Thể chế, cơ chế, chính sách khuyến khích, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, áp dụng các mô hình kinh tế mới, đổi mới sáng tạo, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ (đặc biệt là cơ chế tài chính) còn nhiều bất cập. Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số còn gặp nhiều vướng mắc trong triển khai thực hiện, nếu chậm được tháo gỡ có nguy cơ bỏ lỡ cơ hội bắt kịp với xu thế mới. Hoàn thiện thể chế còn chậm, cải thiện môi trường kinh doanh còn bất cập, đặc biệt xung đột, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật, các điều kiện kinh doanh chưa phù hợp, hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật chưa cao.
Cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng chưa có nhiều thay đổi đáng kể khi mức độ cải thiện về năng suất, chất lượng chưa đạt như kỳ vọng, khả năng chống chịu của nền kinh tế còn hạn chế. Tốc độ tăng năng suất lao động trung bình 2021-2022 là 4,7%, năm 2023 ước tăng khoảng 4%, thấp hơn khá nhiều so với tốc độ tăng năng suất lao động trung bình giai đoạn 2016-2020 (5,9%). Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP tăng chậm, năm 2021 là 24,3%, năm 2022 là 24,7%. Nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phụ thuộc nhiều vào xuất nhập khẩu, dễ bị tổn thương và khó phục hồi trước những biến động của kinh tế thế giới
Việc phát triển lực lượng doanh nghiệp có dấu hiệu chững lại, thậm chí suy giảm[4], năng lực hấp thụ vốn giảm. Khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước còn yếu và thiếu cả về số lượng và chất lượng, tốc độ tăng trưởng chậm lại, quy mô còn nhỏ, năng lực công nghệ còn hạn chế, chưa theo kịp tiến trình đổi mới công nghệ và phát triển kinh tế số. Doanh nghiệp tư nhân trong nước tuy đã từng bước tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu nhưng chủ yếu vẫn ở những giai đoạn tạo ra giá trị gia tăng thấp. Mức độ liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp còn hạn chế, liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước còn yếu, chưa có nhiều cải thiện.
Các ngành kinh tế chưa chuyển dịch mạnh về tăng năng suất, nhất là khu vực công nghiệp và dịch vụ; năng lực tự chủ và khả năng chống chịu còn nhiều hạn chế. Công nghiệp chế biến, chế tạo mặc dù là động lực tăng trưởng nhưng năng lực công nghệ của một số ngành công nghiệp nền tảng chậm được cải thiện, chưa đáp ứng được kỳ vọng phát triển, còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu đầu vào. Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp xuất khẩu dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp đạt thấp, giá trị gia tăng tạo ra trong nước chưa đạt như mong muốn. Chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ vẫn còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng, xuất khẩu dịch vụ còn hạn chế, các ngành sử dụng tri thức, khoa học công nghệ còn phát triển chậm. Du lịch phục hồi nhưng chưa nhanh đối với phân khúc thị trường khách quốc tế.
Cơ cấu lại một số lĩnh vực trọng tâm còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Thể chế và chính sách liên quan trực tiếp đến việc triển khai dự án đầu tư công còn bất cập, một số quy định pháp luật còn chưa đồng bộ, thống nhất, khả thi, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; kết quả đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt đầu tư tư còn hạn chế. Phân cấp ngân sách chậm được sửa đổi, hoàn thiện. Thu NSNN chưa bền vững. Tình trạng gian lận, trốn thuế, quản lý thu thuế đối với các hoạt động kinh doanh trên nền tảng số, thương mại điện tử, kinh doanh xuyên biên giới còn diễn biến phức tạp. Cơ cấu lại các TCTD vẫn gặp nhiều khó khăn, thách thức về hành lang pháp lý, cơ chế hỗ trợ đối với TCTD tham gia xử lý/nhận chuyển giao bắt buộc các TCTD yếu kém. Cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém còn chậm, kéo dài. Nợ xấu vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thị trường mua bán nợ chậm phát triển.
Các loại thị trường hoạt động còn chưa hiệu quả, chưa đảm bảo điều kiện phát triển bền vững. Thị trường lao động còn nhiều hạn chế, còn vấn đề thiếu hụt lao động cục bộ tại một số địa bàn, lĩnh vực, chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Thị trường KHCN phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, đặc biệt trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ. Thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, phát triển chậm lại, tiềm ẩn nhiều rủi ro, ảnh hưởng đến việc phát triển các kênh huy động vốn mới cho doanh nghiệp, làm gia tăng áp lực lên hệ thống ngân hàng. Thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp trầm lắng, tồn tại nhiều giao dịch phi chính thức không được quản lý; thị trường bất động sản gặp nhiều khó khăn, nhiều dự án bất động sản khó triển khai, cơ cấu sản phẩm không hợp lý, thiếu nhà ở cho công nhân, nhà ở xã hội.
Các đại biểu cũng đề nghị chính phủ, các bộ, ngành và địa phương cần bám sát chủ trương, đường lối và các mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm trong Nghị quyết; xác định mục tiêu cụ thể, phân công nhiệm vụ rõ ràng, căn cứ vào tình hình thực tiễn, để giao nhiệm vụ, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, huy động mọi nguồn lực, triển khai thực hiện; Tham mưu hoàn thiện đẩy nhanh tiến độ sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Các đại biểu cũng cho rằng, đề án chỉ được thực hiện khi Chính phủ, các bộ nghành đẩy mạnh tinh thần kiến tạo, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong tổ chức thực hiện một số chủ trương, định hướng còn chưa cao.
Muốn đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành các mục tiêu cơ cấu lại các lĩnh vực trọng tâm để hoàn thành mục tiêu đã đề ra, các đại biểu cho rằng, cần tiếp tục tập tring hoàn thiện thế chế, hệ thống pháp luật tháo gỡ rào cản thức đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế; Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công theo hướng phân cấp, phân quyền, gắn với trách nhiệm người đứng đầu, đơn giản hóa thủ tục , nâng cao hiệu quả đầu tư và phát huy mạnh hơn vai trò đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt đầu tư tư nhân, thúc đẩy hình thức đối tác công tư; Đẩy mạnh cơ cấu lại ngân sách nhà nước, hỗ trợ thúc đẩy đổi mới sáng tạo, liên kết vùng, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh; Hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, xây dựng khung pháp lý xử lý hiệu quả nợ xấu, cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng; Tăng cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa, nâng cao hiệu quả chất lượng, mức độ đáp ứng yêu cầu cung ứng các dịch vụ công.
Phát biểu kết luận phiên thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh đề nghị trong báo cáo, Chính phủ cần làm rõ thêm về hiệu quả thực hiện các giải pháp đột phá như Nghị quyết 43 của Quốc hội và thực hiện 3 đột phá chiến lược là thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, Thực hiện tái cơ cấu các ngành, lĩnh vực và đẩy mạnh liên kết vùng. Tuy nhiên, với những tồn tại, hạn chế đặt ra, để hoàn thành GDP cả nhiệm kỳ còn là thách thức. Vì vậy, trong 2,5 năm tới, Chính phủ cần tập trung hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế số, khai thác tiềm lực đất đai, năng suất lao động, đặc biệt nỗ lực hoàn thành tuyến đường bộ cao tốc Bắc Nam phía đông và Cảng hàng không quốc tế Long Thành. Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh đề nghị, Chính phủ hoàn thiện báo cáo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến trong phiên họp tới.
Nguồn Quốc Hội: https://quochoi.vn//tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=80380