Cẩn trọng trước cuộc đua lợi nhuận giữa một số ngân hàng

Việc một số ngân hàng đặt mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận cả năm 2025 ở mức cao trong bối cảnh tỷ lệ nợ xấu tiếp tục gia tăng và tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng giảm, gây ít nhiều lo ngại về chất lượng tài sản và tín dụng.

Mục tiêu lợi nhuận phân hóa

Với kỳ vọng tín dụng tích cực hơn khi sức hấp thu vốn của nền kinh tế được cải thiện, một số ngân hàng tự tin đặt mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận năm 2025 ở mức cao. Chẳng hạn, Eximbank dự kiến dư nợ tín dụng đạt 195.500 tỉ đồng tính tới cuối năm 2025, tăng 16,2% so với thực hiện năm 2024 còn lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt 5.580 tỉ đồng, tăng 33,2%.

Môi trường lãi suất thấp được kỳ vọng sẽ giúp các ngân hàng mở rộng tín dụng. Ảnh: Lê Vũ.

Môi trường lãi suất thấp được kỳ vọng sẽ giúp các ngân hàng mở rộng tín dụng. Ảnh: Lê Vũ.

Với VPBank, bà Lưu Thị Thảo, Phó tổng giám đốc thường trực, cho biết ngân hàng đặt mục tiêu lợi nhuận năm 2025 khoảng 24.000-25.000 tỉ đồng, tương ứng mức tăng trưởng khoảng 20-25% so với năm 2024. Cơ sở đặt ra mục tiêu này là định hướng tiếp tục tập trung vào phân khúc chiến lược là bán lẻ và doanh nghiệp nhỏ và và (SME), với mức tăng trưởng tín dụng khoảng 30-40%.

Ngoài ra, VPBank sẽ duy trì mức tăng trưởng trong lĩnh vực cho vay bất động sản (BĐS) và xem đây là nền tảng để mở rộng tín dụng bán lẻ. Trong đó, phân khúc nhà ở tại khu vực phía Bắc, nơi có đà phục hồi mạnh hơn các khu vực khác thời gian qua, và BĐS khu công nghiệp và nhà ở xã hội (NƠXH) sẽ được ưu tiên vốn nhiều hơn.

HDBank đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế trên 20.000 tỉ đồng, tăng 25% so với mức thực hiện năm 2024, với kỳ vọng tăng trưởng tín dụng tiếp tục mạnh mẽ trong năm 2025, nhờ các động lực chính như nhóm doanh nghiệp xuất khẩu; tài trợ chuỗi cung ứng; thị trường bất động sản tiếp tục phục hồi.

Bên cạnh đó, việc tham gia tái cấu trúc DongABank (đổi tên thành Vikki Bank - PV) cùng nhu cầu tín dụng bán lẻ dự kiến tiếp tục cải thiện trong năm 2025, sau khi phục hồi tốt trong quí 4-2024 và tháng 1-2025, cũng giúp lãnh đạo ngân hàng tự tin đặt mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận cao.

Ngược lại, hạn chế về vốn điều lệ khiến BIDV và Vietcombank lần lượt đặt mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận trước thuế trong khoảng 6-10% và 5% so với năm trước.

Ông Phan Đức Tú, Chủ tịch HĐQT BIDV, cho biết với yêu cầu tăng trưởng tín dụng cao hơn thời gian tới, vốn tự có của ngân hàng cũng phải tăng tương ứng. Tuy nhiên, đây là bài toán khó với ngân hàng Việt.

“Các ngân hàng lớn khu vực ASEAN đã áp dụng tiêu chuẩn Basel III trong khi ngân hàng Việt Nam chưa áp dụng. Các ngân hàng thương mại như chúng tôi đang chịu áp lực rất lớn khi vừa phải tăng trưởng để phục vụ tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, vừa phải đáp ứng được các tiêu chuẩn, yêu cầu theo thông lệ quốc tế”, ông Tú nói.

Từ góc nhìn chuyên gia, ông Trần Minh Hoàng, Giám đốc phân tích & nghiên cứu, Công ty chứng khoán Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam (VCBS) dự báo lợi nhuận trung bình của các ngân hàng trong năm 2025 có thể tăng trưởng 15%-16% khi kinh tế khởi sắc, giúp cầu tín dụng và dịch vụ tài chính gia tăng. Thế nhưng, lợi nhuận năm 2025 sẽ có sự phân hóa rõ rệt giữa các nhóm ngân hàng. Nhóm ngân hàng có tỷ trọng cho vay bán lẻ cao sẽ có mức tăng trưởng lợi nhuận tốt hơn so với trung bình ngành nhờ sự phục hồi của cầu tiêu dùng trong năm nay.

Ngoài ra, ngân hàng có lợi thế về tiền gửi không kỳ hạn (CASA) và linh động trong huy động vốn, sẽ có nhiều tiềm năng tối ưu hóa được chi phí vốn, qua đó cải thiện được lợi nhuận.

Theo đó, các ngân hàng tư nhân năng động, có thế mạnh về bán lẻ, lợi thế về chi phí vốn và chất lượng tài sản tốt, được kỳ vọng sẽ có mức tăng trưởng năm 2025 cao hơn so với mức trung bình của ngành, ước tính khoảng 20% so với năm 2024.

Những rủi ro tiềm tàng

Tăng trưởng tín dụng giúp cho các ngân hàng tăng trưởng lợi nhuận nhưng tăng trưởng tín dụng cao thường dẫn tới hệ lụy như chất lượng tín dụng giảm, rủi ro thanh khoản, dòng tiền chảy vào kênh đầu cơ...

Cụ thể, tổng dư nợ tại 27 ngân hàng trong hệ thống là hơn 11,85 triệu tỉ đồng tính đến 31-12-2024, tăng 18% so với đầu năm. Tổng lượng tiền gửi khách hàng tại 27 ngân hàng là gần 11,14 triệu tỷ đồng, tăng 13%.

Việc tín dụng tăng cao hơn huy động vốn khiến tỷ lệ dư tín dụng trên số vốn huy động của ngân hàng (LDR) tăng lên. Đáng lưu ý, tại thời điểm cuối năm 2024, có 20/27 ngân hàng báo tỷ lệ LDR tăng cao hơn so với đầu năm, đồng nghĩa các ngân hàng cấp tín dụng nhiều hơn nguồn vốn huy động được.

Thị trường bất động sản phục hồi trong năm 2025 sẽ thúc đẩy tín dụng ngân hàng. Ảnh: H.P

Thị trường bất động sản phục hồi trong năm 2025 sẽ thúc đẩy tín dụng ngân hàng. Ảnh: H.P

Thực trạng này cũng được ông Đào Minh Tú, Phó Thống đốc NHNN thừa nhận tại một hội thảo diễn ra mới đây, với so sánh “ngân hàng huy động 10 đồng nhưng đã cho vay trên 10 đồng”.

“Ngân hàng phải sử dụng cả vốn tự có, cả vốn điều lệ của các ngân hàng, cả vốn tái cấp vốn của NNN hỗ trợ để cho vay nhiều hơn cả vốn huy động”, ông Tú nói và thừa nhận tình trạng ngân hàng phải sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung - dài hạn thay cho thị trường vốn.

Trước áp lực thanh khoản gia tăng, các chuyên gia của VIS Rating đánh giá nhóm ngân hàng nhỏ phải đối mặt với rủi ro thanh khoản cao, do phụ thuộc vào nguồn vốn ngắn hạn và có bộ đệm thanh khoản yếu. Nếu không có biện pháp kịp thời để điều chỉnh mô hình kinh doanh và tối ưu hóa danh mục tín dụng thì nguy cơ mất thanh khoản và rủi ro tín dụng có thể trở thành vấn đề nghiêm trọng.

Bên cạnh yếu tố thanh khoản, bộ đệm dự phòng của toàn ngành ngân hàng tiếp tục thu hẹp trong 2024, với tỷ lệ bao phủ nợ xấu trung bình toàn ngành giảm về mức thấp nhất trong 5 năm qua, làm hạn chế khả năng xử lý nợ và gia tăng áp lực trích lập, đặc biệt ở những ngân hàng có tệp khách hàng rủi ro cao và có tỷ lệ nợ tái cơ cấu/tổng dư nợ cao.

Đáng lưu ý, một số ngân hàng như MB, LPBank ghi nhận tình trạng nợ nấu nội bảng gia tăng nhưng trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) và tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LRR) giảm.

Với MB, tổng nợ xấu nội bảng tính tới cuối năm 2024 khoảng 12.600 tỉ đồng, tăng 28,3% so với cuối 2023. Tuy nhiên, tỷ lệ LRR năm 2024 chỉ ở mức 92,2%, thấp hơn 24,8% so với năm 2023.

Với LPBank, giá trị nợ có khả năng mất vốn (các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, gần như không thể thu hồi) tăng 107,2%, từ mức 1.169 tỉ đồng năm 2023 lên hơn 2.422 tỉ đồng năm 2024. Trong khi đó, số trích lập dự phòng rủi ro chỉ ở mức 1.954 tỉ đồng, giảm hơn 30% so với năm trước. Tỷ lệ LRR năm 2024 ở mức 83,3%, thấp hơn 10,4% so với năm 2023.

Theo ông Trần Minh Hoàng, bối cảnh tỷ lệ bao phủ nợ xấu trung bình của toàn ngành vẫn ở mức thấp trong khi áp lực từ nợ xấu tiếp tục hiện hữu, khiến các ngân hàng phải gia tăng dự phòng trong năm 2025.

Điều này sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng lợi nhuận của một số ngân hàng nhất là đối với những đơn vị có tỷ lệ nợ tái cơ cấu cao và tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp hơn mức trung bình ngành. Ngoài ra, các ngân hàng buộc phải tìm được điểm cân bằng giữa mục tiêu mở rộng tín dụng và quản trị rủi ro, nhằm kiểm soát chất lượng nợ.

Vân Phong

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/can-trong-truoc-cuoc-dua-loi-nhuan-giua-mot-so-ngan-hang/