Cảnh báo sớm thiên tai: Từ nỗi đau sạt lở đến 'lá chắn số' an toàn cho người dân

Để chủ động trước thiên tai, giải pháp quan trọng là cảnh báo sớm và xây dựng mô hình khu dân cư an toàn, dựa trên dữ liệu địa chất, công nghệ học máy cùng hệ thống cảnh báo thời gian thực.

Sạt trượt nhỏ đến trung bình chủ yếu do mưa. (Ảnh: Hoài Nam/Vietnam+)

Sạt trượt nhỏ đến trung bình chủ yếu do mưa. (Ảnh: Hoài Nam/Vietnam+)

Tình hình thiên tai (đặc biệt là bão, mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất) thời gian qua cho thấy biến đổi khí hậu đang tái định hình cơ chế hình thành và cường độ của các hiện tượng thời tiết cực đoan theo hướng khốc liệt hơn.

Vì thế, để giảm thiểu rủi ro, nhất là sau những "thảm họa thiên tai" đau xót ở Trà Leng, Mù Cang Chải, Làng Nủ và hàng loạt vụ sạt lở ở “khúc ruột miền Trung” vừa qua, theo giới chuyên gia việc nâng cao hệ thống cảnh báo, đặc biệt là cảnh báo sớm sạt lở gắn với xây dựng khu dân cư an toàn dựa trên dữ liệu, công nghệ và sự tham gia của cộng đồng là rất cấp thiết.

Hai nhóm nguy cơ chính dẫn tới sạt lở

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong khoảng 2 thập kỷ vừa qua, Việt Nam liên tiếp hứng chịu nhiều trận bão, lũ trên diện rộng với mức độ nghiêm trọng và nhiều chỉ số mang tính lịch sử. Nhiều trận mưa lớn đã dẫn tới thảm họa sạt lở nghiêm trọng, gây tổn thất nặng nề về người và kinh tế.

Con số thống kê từ Cục Quản lý Đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cập nhật mới nhất cho thấy trung bình 20 năm qua (từ năm 2006-2025), thiên tai đã làm khoảng 314 người chết, mất tích/năm. Riêng từ đầu năm 2025 đến nay, những cơn thịnh nộ của thiên tai gia tăng đã khiến 409 người chết và mất tích; ngoài ra có 727 người bị thương.

Không chỉ “cướp” đi sinh mạng của nhiều người, thiên tai còn gây tổn thất nặng nề về nhà cửa, công trình, lúa, hoa màu,... Con số thống kê tổng thiệt hại về kinh tế từ đầu năm đến nay ước tính khoảng trên 86.000 tỷ đồng.

Trước diễn biến khốc liệt và đau xót trên, chia sẻ với phóng viên, Giáo sư-Tiến sỹ Đỗ Minh Đức (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng công tác cảnh báo sớm thiên tai, đặc biệt là lũ quét, sạt lở cần phải chính xác hơn và phải đến được với từng hộ dân.

Ông Đức cũng lưu ý trong điều kiện của một quốc gia đang phát triển, nếu chỉ dựa vào các giải pháp công trình sẽ không thể “chắn” hết thiên tai. Do đó, giải pháp quan trọng là “phòng và tránh” dựa trên khoa học và tính chủ động từ cộng đồng; cùng phương châm “ba sớm” - phát hiện sớm, cảnh báo sớm, hành động sớm và “ba đúng” - đúng người, đúng việc, đúng thời điểm.

Dẫn kết quả khảo sát tại Mù Cang Chải và nhiều tỉnh miền núi, ông Đức cho biết nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, nhận thấy sạt lở tại Việt Nam rất dễ xảy ra, bởi gần như mọi mái dốc đều có thể trượt khi bị đào cắt làm nhà, với chiều cao trên 6m, độ dốc trên 45 độ.

 Bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở, lũ quét bằng mô hình học máy rừng ngẫu nhiên (RF). (Nguồn:

Bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở, lũ quét bằng mô hình học máy rừng ngẫu nhiên (RF). (Nguồn:

Thậm chí, nhiều công trình dù gia cố vẫn bị đá đất “đẩy bật” khỏi chân dốc, trong đó, những trận trượt lở lớn chặn dòng suối, gây lũ bùn đá thời gian qua là minh chứng rõ ràng cho dạng rủi ro quy mô lớn, bộc phát.

Ngoài ra, ông Đức nêu hai nhóm nguy cơ dẫn đến chính dẫn đến sạt, trượt lở. Đầu tiên là sạt trượt nhỏ đến trung bình do mưa, đặc biệt là mưa lớn. Theo ông, nguy cơ này có thể dự báo tốt hơn nhờ mạng lưới quan trắc mưa dày và các kỹ thuật dự báo mới. Tiếp theo là trượt đất, đá quy mô lớn, ít phụ thuộc mưa mà liên quan đến cấu trúc địa chất và biến dạng tích lũy.

Với nguy cơ thứ 2, ông Đức cho rằng dù chỉ chiếm 15% số vụ, song lại gây ra hơn 85% thiệt hại, trong đó khu vực từ Đà Nẵng, Quảng Nam tới Lâm Đồng, nơi có mật độ dự án và đường giao thông cao - đối mặt nguy cơ đặc biệt lớn.

Một yếu tố khác khiến ông Đức băn khoăn, đó là trên thực địa, dù các dấu hiệu cảnh báo sạt, trượt lở không khó nhận biết (như vết nứt dài, bậc thềm lún, nhà nghiêng, suối uốn cong bất thường nhiều lần trong đoạn ngắn là dấu tích các khối trượt cũ); thế nhưng việc nhận biết dấu hiệu này đòi hỏi chuyên môn địa chất, không phải cán bộ cơ sở hay người dân nào cũng rõ.

Biến công nghệ thành “lá chắn” an toàn

Bàn về giải pháp, Giáo sư-Tiến sỹ Đỗ Minh Đức cho rằng để chủ động trước thiên tai, giải pháp quan trọng là cần phải cảnh báo sớm thiên tai, sạt lở và xây dựng mô hình khu dân cư an toàn, dựa trên dữ liệu địa chất, công nghệ học máy cùng hệ thống cảnh báo thời gian thực.

Theo ông Đức, trong điều kiện thực tế công nghệ Việt Nam hiện nay, tất cả những công nghệ gần như hiện đại nhất trên thế giới đều đã và đang áp dụng như công nghệ quan trắc giám sát để dự báo mưa trong thời gian ngắn một vài giờ đến một vài ngày, công nghệ về viễn thám radar...

Tuy nhiên mức độ đầu tư hiện vẫn còn hạn chế, nên cảnh báo sớm cần nhiều sự đầu tư hơn nữa phát huy hiệu quả toàn diện trong xã hội.

Dẫn kinh nghiệm từ kết quả nghiên cứu thực tế tại Mù Cang Chải (tỉnh Yên Bái cũ), ông Đức cho biết nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã xây dựng bộ gần 20 tiêu chí đơn giản, hỗ trợ chính quyền và cộng đồng tự đánh giá vị trí nguy hiểm; kèm bản đồ phân vùng nguy cơ và danh sách từng hộ dân nằm trong vùng rủi ro.

Trên nền dữ liệu đó, nhóm đã đề xuất mô hình khu dân cư an toàn, triển khai theo 5 bước, bao gồm: Phân vùng nguy cơ chi tiết đến từng thôn bản; dự báo theo ngày bằng mô hình Random Forest và dữ liệu mưa nhiều năm; nhận biết nguy cơ qua bảng kiểm thực địa; cảnh báo theo giờ trong thời gian thực; xây dựng kịch bản ứng phó cụ thể cho từng hộ, từng tuyến di dời.

Ngoài ra, nhóm ứng dụng nhiều kênh để truyền tin. Khi mưa đạt ngưỡng nguy hiểm, hệ thống tự động gửi email cho Ban chỉ huy Phòng chống thiên tai các cấp đồng thời nhắn tin Zalo tới lãnh đạo xã, thôn và người dân, với tần suất có thể 20 phút/lần khi rủi ro tăng nhanh. Dữ liệu đầu vào lấy từ hơn 250 trạm đo mưa của Quỹ Cộng đồng Phòng chống thiên tai và doanh nghiệp công nghệ, mạng lưới trạm địa phương.

Một điểm nhấn trong đó là ứng dụng “Sạt lở Việt Nam” tích hợp bản đồ mưa, bản đồ nguy cơ và cảnh báo theo giờ; thiết bị đo mưa và còi cảnh báo đã được lắp đặt tại nhiều điểm trong khu dân cư để hỗ trợ sơ tán kịp thời.

 Khu vực sạt lở tại tỉnh Lai Châu. (Ảnh: Hoài Nam/Vietnam+)

Khu vực sạt lở tại tỉnh Lai Châu. (Ảnh: Hoài Nam/Vietnam+)

Trong thời gian qua, một số khu vực tại Mù Cang Chải và khu vực Quảng Nam (nay là thành phố Đà Nẵng) đã lắp đặt hệ thống còi hú cảnh báo - hoạt động cả khi mất điện, mất sóng. "Nhờ đó, trong các đợt mưa lớn gần đây, kết hợp giữa bản đồ nguy cơ, cảnh báo qua Zalo - app và còi hú đã giúp nhiều hộ dân di dời sớm, giảm đáng kể thiệt hại so với năm 2017,” ông Đức nói.

Nhấn mạnh thiên tai đang diễn biến ngày càng phức tạp, ông Bùi Quang Huy, Phó Giám đốc Trung tâm Chính sách và Kỹ thuật phòng, chống thiên tai (Cục Quản lý Đê điều và Phòng, chống thiên tai), cũng cho rằng tình hình hiện nay đòi hỏi cách tiếp cận mới và chủ động hơn trong ứng phó.

Muốn vậy, theo ông Huy, công tác phòng, chống thiên tai cần được nhìn theo hướng tổng thể, bao trùm, với hệ thống kết nối dữ liệu thông tin đồng bộ.

Trong ứng phó thiên tai, yếu tố quan trọng là phải bám sát diễn biến thời tiết theo thời gian thực, hỗ trợ kịp thời các địa phương có rủi ro cao. Cùng với đó là việc sử dụng bản đồ rủi ro thiên tai như công cụ để đào tạo lực lượng xung kích, cũng như là kênh cảnh báo và công bố thông tin đến người dân.

Thừa nhận dự báo mưa hiện vẫn là thách thức lớn, Phó Giáo sư-Tiến sỹ Mai Văn Khiêm, Giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia (Cục Khí tượng thủy văn) nhấn mạnh việc đầu tư, áp dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao hiệu quả dự báo thiên tai là điều vô cùng cấp thiết./.

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/canh-bao-som-thien-tai-tu-noi-dau-sat-lo-den-la-chan-so-an-toan-cho-nguoi-dan-post1080178.vnp