Cảnh giác phòng chống sốt xuất xuyết
Hiện nay, thời tiết trên cả nước đang bước vào mùa hè cao điểm với nhiều mưa, tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh sốt xuất huyết phát triển mạnh và lan rộng. Đây là thời điểm người dân cần nâng cao cảnh giác và thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng chống dịch bệnh nguy hiểm này.
Sốt xuất huyết là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus Dengue gây ra, có khả năng dẫn đến biến chứng nặng, điều trị khó khăn, tốn kém. Sốt xuất huyết lây từ người sang người chủ yếu thông qua vết đốt của muỗi vằn cái Aedes aegypti có mang virus. Virus sốt xuất huyết có 4 tuýp huyết thanh bao gồm DENV-1, DENV-2, DENV-3 và DENV-4. Có đến 80% trường hợp người nhiễm sốt xuất huyết không có triệu chứng nhưng vẫn có khả năng lây truyền bệnh qua cho người khác qua trung gian muỗi vằn.
Căn bệnh này đã được ghi nhận từ thế kỷ XIII, xuất hiện trên 100 nước với 50-100 triệu ca mắc mỗi năm trên toàn cầu. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã ra tuyên bố “Thế kỷ 21 là thế kỷ phòng chống bệnh sốt xuất huyết”.
Nếu như trước đây sốt xuất huyết chỉ diễn biến theo mùa, thì với tác động đô thị hóa và nhiều yếu tố khác như biến đổi khí hậu, giao thương phát triển, bệnh sốt xuất huyết ngày càng khó lường. Hiện Việt Nam có số ca sốt xuất huyết xuất hiện quanh năm và khắp mọi nơi trên đất nước.
Trước tình hình dịch sốt xuất huyết diễn tiến gia tăng, 5 tháng đầu năm cả nước ghi nhận gần 23.000 ca sốt xuất huyết, trong đó 5 người tử vong, riêng TP. Hồ Chí Minh có số ca mắc tăng 134% so với cùng kỳ năm trước. Bộ Y tế cảnh báo ngoài việc chủ động phòng bệnh, người dân cần phát hiện sớm chăm sóc, nhìn nhận và theo dõi người bệnh sốt xuất huyết đúng cách rất quan trọng, đặc biệt là sốt xuất huyết ở trẻ em.

Mức độ nguy hiểm của bệnh sốt xuất huyết
Trong những năm gần đây, Tổ chức y tế Thế giới (WHO) đã liên tục phát đi những cảnh báo về sự gia tăng sốt xuất huyết trên phạm vi toàn cầu và đánh giá bệnh là 1 trong 10 “mối đe dọa sức khỏe toàn cầu” được xếp mức độ 3 (mức độ cao nhất) về khẩn cấp y tế.
Sốt xuất huyết nguy hiểm bởi các yếu tố: Diễn biến khó lường, hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, các biến chứng của bệnh đặc biệt nguy hiểm thậm chí có khả năng dẫn đến tử vong.
Sốt xuất huyết diễn biến khó lường, không thể đoán trước. Dù không có dấu hiệu cảnh bảo, bệnh nhân vẫn có thể sốc, thoát dịch xuất huyết nặng, suy đa tặng… và tử vong.
Do triệu chứng sốt dễ nhầm lẫn với sốt do các nguyên nhân khác, nhất là ở trẻ em, nên thường bị bỏ qua giai đoạn đầu, thường chỉ được đưa đến bệnh viện khi đã có diễn biến nặng, khó điều trị, có thể dẫn tới tử vong
Hiện sốt xuất huyết chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Các phương pháp điều trị hiện tại chủ yếu tập trung vào điều trị triệu chứng với các trường hợp sốt xuất huyết nhẹ và điều chỉnh các rối loạn bệnh sinh với những trường hợp nặng.
Sốt xuất huyết nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời có khả năng dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm như sốc sốt xuất huyết, gây giảm tiểu cầu với các biểu hiện xuất huyết, tăng tính thấm thành mạch, dẫn đến suy giảm thể tích nội mạch và gây sốc hoặc tình trạng xuất huyết nặng, tích tụ dịch, suy hô hấp, suy đa tạng nặng như tổn thương gan, thần kinh trung ương, tim và các cơ quan khác.
Nguyên nhân sốt xuất huyết
Nguyên nhân sốt xuất huyết là do virus Dengue gây ra, thuộc họ Flaviviridae, một họ virus RNA khá phổ biến trong môi trường nhiệt đới và cận nhiệt đới trên toàn cầu. Số ca mắc sốt xuất huyết đã gia tăng đáng kể trong những thập kỷ gần đây và hiện nay bệnh đã trở thành một trong những mối đe dọa lớn cho sức khỏe cộng đồng ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á và Nam Mỹ.
Virus Dengue được truyền từ người sang người thông qua vết đốt của muỗi Aedes aegypti và Aedes albopictus, hai loài muỗi phổ biến trong các khu vực đô thị và nông thôn. Việc kiểm soát sinh sản và sự phát triển của loài muỗi này là một trong những biện pháp hàng đầu trong phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh sốt xuất huyết.
Có 4 tuýp huyết thanh của virus Dengue (DENV) có thể gây bệnh, bao gồm DENV-1, DENV-2, DENV-3 và DENV-4. Mỗi người có thể bị nhiễm mỗi tuýp ít nhất một lần trong đời. Bệnh nhân mắc sốt xuất huyết do chủng virus nào chỉ có miễn dịch suốt đời với duy nhất 1 chủng virus đó, có thể sẽ tạo miễn dịch chéo với các tuýp virus còn lại nhưng chỉ là thoáng qua, không bền vững, nhanh chóng suy giảm và biến mất hoàn toàn.
Điều đó có nghĩa rằng bệnh nhân từng mắc sốt xuất huyết vẫn có nguy cơ tái nhiễm bệnh nhiều hơn một lần trong đời và thường gây ra các triệu chứng nghiêm trọng hơn ở lần tái nhiễm.
Theo Cục Y tế Dự phòng (Bộ Y tế), Việt Nam lưu hành cả 4 tuýp virus Dengue, nhưng chủ yếu là 2 chủng virus DENV-1 và DENV-2. Trong năm 2023, tuýp DENV-2 chiếm 88%; năm 2024 tuýp DENV-2 chiếm khoảng 70%. Tuýp DENV-2 thường liên quan đến các trường hợp mắc sốt xuất huyết nghiêm trọng và gây dịch cũng như là nguyên nhân lớn dẫn đến các ca tử vong liên quan đến sốt xuất huyết.
Có thể thấy, virus gây bệnh sốt xuất huyết là một thách thức nghiêm trọng đối với y tế cộng đồng ở nhiều khu vực trên thế giới. Sự phức tạp trong đặc điểm sinh học và khả năng lây lan nhanh chóng của virus này đòi hỏi chiến lược quản lý tổng thể và đồng bộ, từ việc kiểm soát muỗi truyền bệnh đến cải thiện sự nhận thức và hành vi chủ động phòng ngừa của người dân.
Bệnh sốt xuất huyết lây qua đường nào?
Hiện nay, những lầm tưởng, quan điểm nhìn nhận chưa đúng về sốt xuất huyết rất nhiều, trong đó có vấn đề đường lây truyền bệnh và việc tiếp xúc với người bị sốt xuất huyết có lây bệnh không? Cần phải khẳng định, sốt xuất huyết không lây truyền khi tiếp xúc với người bệnh, mà lây phổ biến qua các con đường sau:
Bệnh sốt xuất huyết lây truyền chủ yếu qua đường muỗi đốt, do muỗi vằn cái là trung gian lây truyền bệnh. Khi muỗi đốt người bệnh mang virus Dengue, chúng sẽ mang mầm bệnh và phát tán virus thông qua vết đốt. Ngay cả ở những người mắc sốt xuất huyết không có triệu chứng hoặc người mang virus đang trong giai đoạn ủ bệnh vẫn có thể trở thành nguồn lấy virus cho người khác khi bị muỗi đốt. Nghiên cứu cho thấy, có đến 80% trường hợp nhiễm sốt xuất huyết không triệu chứng, nhưng vẫn có khả năng lây truyền bệnh cho người khác qua vector trung gian là muỗi.
Ngoài con đường muỗi truyền, virus Dengue còn có thể lây lan qua 2 con đường khác hiếm gặp hơn là từ mẹ truyền sang con, đường máu (khi hiến máu, hiến tặng, phơi nhiễm với kim tiêm có máu người bệnh mắc sốt xuất huyết…).
Lây qua đường lấy máu hoặc dùng chung bơm kim tiêm. Đường lây truyền này ít phổ biến hơn so với lây qua đường muỗi vằn đốt. Người lành có nguy cơ cao mắc bệnh nếu lấy máu của người mang mầm bệnh truyền cho người lành hoặc khi người lành và người bệnh dùng chung bơm kim tiêm.

Triệu chứng sốt xuất huyết
Triệu chứng sốt xuất huyết lâm sàng rất đa dạng và dễ nhầm lẫn với các bệnh có triệu chứng tương tự khác, có thể diễn tiến qua từng giai đoạn. Cụ thể như sau:
Ở giai đoạn đầu của sốt xuất huyết Dengue, bệnh nhân thường khởi phát với triệu chứng sốt cao đột ngột và kéo dài trong vòng 4-7 ngày từ khi bị muỗi đốt và lây truyền mầm bệnh. Ngoài ra, biểu hiện sốt cao, người bệnh xuất huyết vẫn có thể xuất hiện nhiều triệu chứng khác cần được lưu ý. Các dấu hiệu thường gặp bao gồm đau đầu liên tục, đau giảm hai mắt, kèm theo cảm giác mệt mỏi, đau cơ và đau khớp. Nhiều bệnh nhân có biểu hiện chán ăn, buồn nôn kéo dài, ảnh hưởng đến sức khỏe toàn thân. Đặc biệt, các triệu chứng xuất huyết như nổi ban dưới da, chảy máu chân răng hoặc chảy máu mũi.
Các ban sốt xuất huyết có thể xuất hiện trên cơ thể 3-4 ngày sau khi bắt đầu sốt và dần thuyên giảm sau 1-2 ngày. Người bệnh có thể bị nổi ban lại một lần nữa vào ngày sau đó. Trong giai đoạn này, xét nghiệm có thể thấy số lượng tiểu cầu bình thường hoặc cũng có thể giảm dần (nhưng vẫn còn trên 100.000/mm3). Số lượng bạch cầu thường giảm.
Ở giai đoạn nguy hiểm, thông thường rơi vào ngày thứ 3 cho đến thứ 7 của bệnh, người bệnh có thể sốt hoặc giảm sốt. Có thể có các biểu hiện như: Đau bụng dữ dội và liên tục hoặc tăng cảm giác đau, nhất là ở vùng gan. Người bệnh còn có thể có dấu hiệu vật vã, li bì, nôn ói. Có các biểu hiện của thoát huyết tương, nếu nặng hơn có dẫn thể đến sốc với biểu hiện vật vã, bứt rứt, li bì, lạnh đầu chi, mạch nhanh nhỏ, huyết áp kẹt, da lạnh, nổi vân tím (sốc nặng), tiểu ít. Tràn dịch màng phổi, mô kẽ có thể gây suy hô hấp, phù nề mí mắt. Ngoài ra, bệnh nhân có thể xuất huyết dưới da. Các nốt xuất huyết rải rác hoặc chấm xuất huyết xuất hiện ở mặt trước hai cẳng chân và mặt trong hai cánh tay, hay vùng bụng, đùi, mạng sườn. Xuất huyết niêm mạc, người bệnh có dấu hiệu chảy máu chân răng, chảy máu mũi, nôn ra máu, đi ngoài phân đen hoặc máu, xuất huyết âm đạo hoặc tiểu máu.
Trong một số trường hợp nặng, bệnh nhân có thể có biểu hiện suy tạng, như tổn thương gan nặng hay suy đa cơ quan gan, thận, tim, phổi, não.
Sốt xuất huyết giai đoạn hồi phục thường diễn ra vào ngày thứ 7 đến thứ 10 của bệnh. Người bệnh lúc đó hết sốt, thể trạng tốt hơn, có cảm giác thèm ăn, tiểu nhiều. Số lượng tiểu cầu sẽ tăng dần và trở về trạng thái bình thường.
Các biến chứng của bệnh sốt xuất huyết
Trước đây, bệnh sốt xuất huyết thường phổ biến ở trẻ em; nhưng hiện tại, nhiều người lớn cũng mắc bệnh và tỷ lệ biến chứng cao. Nếu không được điều trị đúng cách, người bệnh có thể gặp biến chứng nguy hiểm đến tính mạng.
Trước hết, phải kể đến sốc do mất máu thoát huyết tương. Nguyên nhân do virus gây bệnh sốt xuất huyết làm tăng tính thấm mao mạch gây thoát huyết tương, làm cô đặc máu dẫn đến sốc khiến máu bị đẩy ra ngoài. Tình trạng này kéo dài có thể dẫn đến dịch huyết tương ứ đọng trong màng não qua các hành mạch, gây phù não và hội chứng thần kinh. Người bệnh có thể hôn mê.
Thoát huyết tương còn có thể bị tràn, xâm nhập và gây viêm đường hô hấp, tràn dịch màng phổi, viêm phổi hoặc phù phổi cấp. Nếu không được cấp cứu tính mạng người bệnh có thể bị đe dọa.
Biến chứng tụt huyết áp đột ngột do mất máu, thoát huyết tương nếu không được xử trí kịp thời có thể dẫn đến xuất huyết não và tử vong. Từ các biến chứng trên có thể dẫn đến suy tim do chảy máu liên tục khiến tim không đủ máu để tuần hoàn. Ngoài ra, sốt xuất huyết có thể biến chứng suy thận cấp, các biến chứng về mắt như mù đột ngột hoặc suy giảm thị lực.
Ở phụ nữ mang thai bị sốt xuất huyết có thể sốt cao, khiến nhịp tim thai nhi đập nhanh và ảnh hưởng đến thai nhi. Nếu không may nhiễm sốt xuất huyết trong những tháng đầu thai kỳ, thai phụ có thể sảy thai.
Chẩn đoán bệnh sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết và các bệnh truyền nhiễm khác do virus khác như: Covid-19, sốt rét, bệnh do leptospira và sốt thương hàn… có các dấu hiệu và triệu chứng tương đồng nhau nên việc chẩn đoán bệnh sốt xuất huyết chính xác khác khó khăn.
“Hệ miễn dịch càng suy yếu thì nguy cơ vừa nhiễm sốt xuất huyết vừa kèm thêm nhiều bệnh lý khác càng gia tăng. Giai đoạn đầu các triệu chứng của bệnh có thể trùng lắp nên rất khó để biết trẻ bị nhiễm virus sốt xuất huyết, virus SARS-CoV-2, nhiễm các loại siêu vi khác hay bị đồng thời nhiều bệnh. Đây chính là khó khăn trong việc chẩn đoán chính xác bệnh” BS Trương Hữu Khanh cho biết.
Chẩn đoán sốt xuất huyết Dengue thường dựa vào các yếu tố dịch tễ, biểu hiện lâm sàng cũng như dựa vào các xét nghiệm.
Điều trị bệnh sốt xuất huyết
Hiện nay, sốt xuất huyết chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, hầu hết bệnh sẽ tự khỏi trong vòng 2 tuần. Bác sĩ sẽ điều trị các triệu chứng để hạn chế diễn tiến nặng có thể xảy ra. Những trường hợp nhiễm bệnh nhẹ có thể tự khỏi sau một tuần. Những trường hợp nặng được điều trị chủ yếu giảm triệu chứng và kiểm soát các nguy cơ diễn biến nặng của bệnh bằng cách hạ sốt, truyền dịch và chống sốc tích cực. Việc điều trị sốt xuất huyết phải tuân theo phác đồ điều trị chuẩn. Khi xác định dương tính với sốt xuất huyết, người bệnh sẽ được kê đơn điều trị tại nhà hoặc nhập viện điều trị nội trú tùy thuộc vào tình trạng bệnh.
“Tự ý uống hạ sốt liên tục, uống kháng sinh là sai lầm khá phổ biến khi điều trị sốt xuất huyết tại nhà. Nguyên nhân là bệnh sốt xuất huyết do virus Dengue gây ra, không phải vi khuẩn. Do đó, kháng sinh không có tác dụng điều trị bệnh này.” BS Trương Hữu Khanh khuyến cáo.
Ngoài ra, người bệnh cần có chế độ ăn uống lành mạnh, giàu chất xơ và vitamin C, uống nhiều nước và nghỉ ngơi, tránh ăn đồ nhiều dầu mỡ, khó tiêu. Duy trì điều trị và theo dõi trong khoảng 12 ngày, người bệnh có thể quay lại cơ sở y tế để tái khám và nếu không xảy ra biến chứng bất thường có nghĩa là bệnh đã khỏi.

Phòng ngừa bệnh sốt xuất huyết
Vắc xin phòng sốt xuất huyết được phát triển bởi Hãng vắc xin và dược phẩm Takeda (Nhật Bản), sản xuất tại Đức có khả năng phòng ngừa hiệu quả với cả 4 tuýp huyết thanh sốt xuất huyết lên đến 80,2% tại thời điểm 12 tháng sau tiêm liều thứ hai, hiệu lực bảo vệ kéo dài đến 4,5 năm.
Tiêm vắc xin được đánh giá là phương pháp phòng ngừa hiệu quả nguy cơ nhập viện do sốt xuất huyết, với tỉ lệ giảm lên đến 90,4% sau 18 tháng tiêm liều thứ hai. Hiệu lực của vắc xin còn được duy trì trong thời gian dài, hiệu quả chống nhiễm virus là 61,2%, ngăn nhập viện là 84,2% sau 4,5 năm theo dõi.
Muỗi vằn chính là nguồn lây bệnh trung gian và cách tốt nhất để phòng bệnh sốt xuất huyết là tiêu diệt muỗi tận gốc, khi đó nguy cơ bùng phát dịch sẽ giảm đi đáng kể. Muỗi truyền bệnh sốt huyết là muỗi vằn, có đặc điểm dễ nhận biết với thân màu đen và các loại thủy trắng trên thân và chân. Loại mưa này hoạt động chủ yếu vào ban ngày, đặc biệt tích cực vào sáng sớm và chiều tối. Muỗi vằn là tác nhân chính truyền bệnh, thường ẩn ở các góc khuất, xó tối trong nhà, trên quần có mùi hôi hôi, chăn màn, dây phơi và các vật dụng sinh hoạt. Chúng sinh sản bằng cách đẻ trứng trong môi trường nước sạch, phổ biến ở các công cụ chứa nước như bể, chum, vại, hòn non bộ... Ngoài ra, các vật thải nước như lọc hoa, thải xe, xà dừa, thùng hộp sữa chua, nước mưa bị tắc cũng là nơi lý tưởng cho muỗi sinh sản.
Sốt xuất huyết ở mức độ nặng có thể gây ra biến chứng nghiêm trọng, tổn hao đáng kể chi phí y tế, thậm chí cướp đi tính mạng người bệnh. Mỗi người cần chủ động tự giác phòng ngừa bệnh, loại bỏ muỗi vằn xung quanh gia đình, đồng thời phát hiện sớm các triệu chứng để điều trị bệnh kịp thời.
Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/canh-giac-phong-chong-sot-xuat-xuyet-165906.html