Cấp bách thay đổi cách thức hoàn thuế giá trị gia tăng
Thủ tục hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT) được đánh giá là 'còn chậm, phức tạp và bất hợp lý', đặc biệt là quy định 'thu trước – hoàn sau'. Nhiều doanh nghiệp đề xuất xây dựng cơ chế hoàn thuế tự động, chấp nhận bảng kê và chứng từ điện tử, nhằm hỗ trợ dòng tiền và thúc đẩy xuất khẩu.
Tắc dòng vốn từ tiền tỷ tạm ứng thuế
Tuần qua, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã có văn bản gửi Chính phủ, kiến nghị nhiều nội dung liên quan đến hoạt động hoàn thuế GTGT đối với doanh nghiệp và những vướng mắc cần nhanh chóng tháo gỡ để triển khai hiệu quả Luật Thuế GTGT.
Theo VCCI, những kiến nghị này được tổng hợp từ hơn 300 ý kiến của các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng. Tựu trung, hầu hết các kiến nghị đều nhắm vào mong muốn Chính phủ, Bộ Tài chính nhanh chóng có những giải pháp, chính sách nhằm tháo gỡ nút thắt chậm trễ trong khâu hoàn thuế GTGT để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuận lợi về dòng tiền; gỡ bỏ những bất cập, bất bình đẳng trong cách tính thuế GTGT một số mặt hàng.
Chẳng hạn, Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) cho rằng, việc áp dụng thuế suất 5% đối với sản phẩm nông, lâm, thủy sản sơ chế là chưa phản ánh đúng bản chất giá trị gia tăng. Bởi trên thực tế các sản phẩm nông nghiệp như cà phê, tiêu, điều, tôm, cá, gỗ nguyên liệu… chủ yếu chỉ trải qua các công đoạn sơ chế như bóc vỏ, phơi, xát, sấy… không làm phát sinh giá trị gia tăng thực chất. Việc áp thuế 5% cho nhóm hàng hóa này là chưa phù hợp với bản chất của thuế GTGT vốn chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm.
Các doanh nghiệp trong lĩnh vực cà phê, hồ tiêu cho rằng, hiện nay cơ chế “thu trước - hoàn sau” của ngành Thuế đang khiến nhiều đơn vị phải ứng trước một lượng vốn rất lớn cho nghĩa vụ thuế, trong khi biên lợi nhuận ở các ngành hàng này rất thấp (chỉ từ 1-3%). Chẳng hạn, mỗi năm ngành cà phê phải tạm nộp gần 10.000 tỷ đồng thuế GTGT, ngành hồ tiêu phải ứng trước khoảng 2.100-2.200 tỷ đồng khiến áp lực tài chính đối với doanh nghiệp là vô cùng lớn. Điều này làm tăng giá thành xuất khẩu, khiến hàng hóa mất lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Về thủ tục hoàn thuế GTGT, đa số các doanh nghiệp đều cho rằng, hiện nay cơ quan Thuế ở các địa phương triển khai khá chậm chạp; quy trình thủ tục phức tạp, mất thời gian và chứa đựng nhiều rủi ro pháp lý.
Cụ thể, theo Luật Thuế GTGT 2024, để được hoàn thuế bên bán hàng phải “kê khai và nộp thuế”. Quy định này là bất hợp lý vì việc xác minh, kiểm tra thuộc về cơ quan thuế, không thể bắt doanh nghiệp “ngay tình” phải gánh rủi ro về việc vi phạm nghĩa vụ thuế của bên bán và chuyển giao trách nhiệm của bên bán sang bên mua (tức người đã hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ thuế).
Ngoài ra, quy định khống chế mức hoàn thuế không vượt quá 10% doanh thu xuất khẩu trong kỳ là không phù hợp với đặc thù mùa vụ của ngành nông nghiệp, khi doanh nghiệp thường thu mua tập trung đầu vụ nhưng xuất khẩu dàn trải trong nhiều tháng. Điều này khiến phần lớn thuế đầu vào không được hoàn đủ, ảnh hưởng đến tính thanh khoản và khả năng thu mua nguyên liệu từ nông dân.

Việc chậm hoàn thuế GTGT khiến nhiều doanh nghiệp chịu áp lực lớn về dòng tiền trong các đợt cao điểm mùa vụ sản xuất - kinh doanh
Cân nhắc phương án hoàn thuế tự động
Theo các doanh nghiệp, không chỉ có các bất cập như vừa nêu ở trên, nhiều quy định pháp lý mới hiện nay đã được bổ sung và cập nhật trong Luật Thuế GTGT 2024 nhưng trên thực tiễn triển khai, cơ quan Thuế ở các địa phương cũng xảy ra lúng túng và thiếu thống nhất và nhiều vướng mắc.
Chẳng hạn, Luật đã có các quy định bắt buộc hóa đơn GTGT hoặc chứng từ nhập khẩu mới được khấu trừ đầu vào (Điều 14, Điều 16). Tuy nhiên, hiện nay, phần lớn nguyên liệu đầu vào trong ngành nông nghiệp đến từ hộ nông dân nhỏ lẻ nên việc không chấp thuận “bảng kê mua hàng không hóa đơn” thay thế sẽ khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn.
Hay đối với hoạt động xuất khẩu qua thương mại điện tử, các doanh nghiệp cho rằng, việc Luật chưa cho phép sử dụng dữ liệu số, hóa đơn điện tử hoặc chứng từ thay thế trong hồ sơ hoàn thuế (theo Điều 15) là khá bất cập khiến nhiều đơn vị không thể hoàn thuế dù hàng hóa đã xuất khẩu hợp pháp.
Để kịp thời tháo gỡ những khó khăn nêu trên, VCCI kiến nghị Chính phủ nhanh chóng rà soát, sửa đổi các quy định liên quan đến phạm vi chịu thuế GTGT đối với các sản phẩm chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế thông thường; ban hành danh mục cụ thể các loại “sản phẩm sơ chế thông thường” cho từng ngành hàng, nhằm bảo đảm tính thống nhất trong cách hiểu và áp dụng.
Bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp kiến nghị Bộ Tài chính xây dựng cơ chế hoàn thuế tự động đối với các hồ sơ hợp lệ, không có dấu hiệu gian lận. Mặt khác, cần phát triển hệ thống dữ liệu điện tử liên thông giữa cơ quan thuế, hải quan và doanh nghiệp để hỗ trợ quá trình xác thực, đối chiếu.
Đối với hóa đơn, chứng từ; các doanh nghiệp cho rằng Bộ Tài chính nên bổ sung theo hướng cho phép sử dụng bảng kê mua hàng không hóa đơn (theo mẫu quy định tại Thông tư 78/2021/TT-BTC) như một loại chứng từ thay thế để làm căn cứ khấu trừ và hoàn thuế. Đồng thời, cần có hướng dẫn rõ ràng về các trường hợp miễn thuế GTGT đối với hộ nông dân nhỏ lẻ, đảm bảo không tạo ra các rào cản hành chính gây khó khăn cho quá trình thu mua nguyên liệu trong nước.
Riêng đối với hoàn thuế cho doanh nghiệp xuất khẩu qua kênh thương mại điện tử, đại diện nhiều doanh nghiệp cho rằng Chính phủ cần sớm ban hành quy định cho phép sử dụng chứng từ điện tử, dữ liệu giao dịch số làm căn cứ xác minh. Vì đây là giải pháp phù hợp với xu hướng xuất khẩu trong thời đại số hóa.
Ngoài ra, các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế GTGT cũng cần sửa đổi theo hướng phân loại mức độ vi phạm và áp dụng hình thức xử lý hợp lý hơn. Chẳng hạn, mức xử phạt hiện nay từ 5-8 triệu đồng đối với các sai sót nhỏ như chậm kê khai, sai mã hợp đồng là quá cao; nên áp dụng cơ chế khoan hồng đối với vi phạm lần đầu và miễn phạt đối với sai sót nhỏ dưới ngưỡng 50.000 đồng nhằm khuyến khích tuân thủ tự nguyện của doanh nghiệp.











