Câu chuyện ngoại giao ấn tượng ở Hội nghị Paris
Năm nay, năm Quý Mão 2023, chúng ta kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Nửa thế kỷ đã qua mà như mới ngày nào.
Là thành viên Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) tôi có vinh dự tham gia đàm phán Paris từ đầu đến cuối, từ năm 1968 đến 1973.
Thời gian qua đi. Những ký ức còn để lại. Tết này, Báo Đại Đoàn Kết có nhã ý mời tôi viết một bài với chủ đề: “Câu chuyện ngoại giao ấn tượng của Hội nghị Paris”. Viết gì bây giờ?
Hội nghị Paris về Việt Nam, như mọi người chúng ta đều biết, là cuộc đàm phán dài nhất để chấm dứt một cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ XX, một cuộc đụng đầu lịch sử giữa một bên là đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền tay sai với một bên là nhân dân Việt Nam ở cả hai miền đứng lên chống xâm lược. Đó là cuộc đối thoại giữa hai nền ngoại giao - nền ngoại giao nhà nghề của một siêu cường và nền ngoại giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ. Ở Hội nghị Paris đã diễn ra một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai ý chí, hai trí tuệ, hai loại pháp lý và đạo lý, hai thứ mưu lược khác nhau.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến Hội nghị Paris là thất bại của Mỹ trên chiến trường. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của ta đã giáng một đòn nặng nề vào cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ, không chỉ làm chuyển biến thế trận, đảo lộn chiến lược mà còn làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù. Mỹ hiểu rằng không thể thắng ta bằng chiến tranh. Nếu muốn ra khỏi chiến tranh, không có cách nào khác là phải thông qua thương lượng. Vì vậy mà đã phải chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Paris. Còn ta, chấp nhận đàm phán là để mở ra một mặt trận mới về ngoại giao. Ta hiểu rõ, tại bàn đàm phán ta không thể giành lấy cái mà trên chiến trường ta không giành được. Kết quả đàm phán tùy thuộc trước hết vào so sánh lực lượng trên chiến trường. Tài trí ngoại giao không thể thay thực lực. Mặt trận ngoại giao không phải là mặt trận quyết định nhất nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở chỗ nó phối hợp chặt chẽ với hai mặt trận quân sự và chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi.
Câu chuyện ngoại giao ấn tượng nhất của ta tại Hội nghị Paris chính là câu chuyện các nhà đám phán của ta thời đó đã vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, luôn kiên trì các vấn đề nguyên tắc, chiến lược nhưng rất linh hoạt, mềm dẻo về sách lược. Bác Hồ từng căn dặn cán bộ ta: Trong ngoại giao cũng như trong xử lý các tình huống phức tạp, “chính sách phải có cương, có nhu. Cương quá thì dễ gãy. Nhu quá thì hèn. Nói nên nhu. Làm nên cương”. Tại bàn đàm phán, ngoại giao của ta luôn biết hướng tới thắng lợi lớn toàn cục nhưng cũng biết giành từng thắng lợi nhỏ trong mỗi trận đấu, mỗi phiên họp. Biết tính toán kỹ lưỡng từng đường đi nước bước, chắc chắn, thận trọng nhưng không để rơi vào thế bị động. Kiên quyết phê phán những sai trái, khai thác chỗ yếu của đối phương nhưng có thái độ trọng thị với người đối thoại.
Xin nêu lên sau đây vài mẩu chuyện cụ thể:
Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đến Paris được nhìn nhận như một nhà lãnh đạo chính trị quyền uy, đầy mưu lược, nghiêm nghị mà mở lòng, biết cương, nhu đúng lúc.
Bộ trưởng Xuân Thủy được biết đến vừa như một nhà ngoại giao tài ba, nụ cười luôn nở trên môi, vừa là một nhà văn hóa, một nhà thơ, đàm phán rất căng thẳng nhưng “nắm vững phương châm giành thắng lợi/Ung dung anh vẫn dạo vườn thơ” - lời của nhà thơ Sóng Hồng, tức Trường Chinh, họa lại một bài thơ của Xuân Thủy vào những tháng đầu của Hội nghị).
Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình ngay từ buổi đầu đặt chân đến Paris, đã được vinh danh là “Bà hoàng Việt Cộng”, người nữ chiến sĩ duyên dáng, khiêm nhường và kiên quyết, vị trưởng đoàn thường đưa ra trước bàn đàm phán nhiều giải pháp lay động, cũng là người với tư cách Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ký vào văn bản Hiệp định ngang hàng với Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ.
Nhà đàm phán kỳ cựu A. Harriman tại Hội nghị hai bên (từ 13-15 đến hết tháng 10/1968), có lúc nói đại ý: “Tôi đã làm ngoại giao 40 năm, từng là nhân vật số 2 tại Hội nghị Yalta đàm phán với Stalin. Stalin rất cứng rắn nhưng vẫn “có đi có lại”. Các ông còn cứng rắn hơn Stalin vì trước sau các ông vẫn chỉ một mực đòi chấm dứt ném bom không điều kiện sau đó sẽ bàn các việc có liên quan...”
Cố vấn Nhà trắng Kissinger ngay trong buổi đầu tiếp xúc đã nhận xét về Lê Đức Thọ: “Ông lúc nào cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái độ bao giờ cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn biết ông muốn gì và phục vụ lý tưởng của ông một cách trân trọng và khéo léo. Lê Đức Thọ tiếp tôi với một sự lễ phép có khoảng cách của một con người mà ưu thế hiển nhiên đến mức không thể làm khác được bằng một sự lễ phép gần như hạ cố”.
Sau này, qua những cuộc đàm phán không công khai sóng gió với Lê Đức Thọ và Xuân Thủy tại Paris, Kissinger lại nói: “Chúng tôi không may gặp phải một đối phương như các ông chứ nếu được lựa chọn thì chúng tôi sẽ chọn một đối phương khác”.
Đúng ngày 29/3/1973, 60 ngày sau khi Hiệp định Paris được ký kết, những đội quân cuối cùng của quân đội viễn chinh Mỹ cùng với vị chỉ huy cao nhất của nó đã cuốn cờ về nước, chấm dứt những ngày đen tối của họ sau hàng chục năm chiến tranh ở Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên từ hơn 100 năm, sự chiếm đóng của quân đội nước ngoài đã chấm dứt trên đất nước ta.
Câu chuyện ngoại giao ấn tượng nhất của ta tại Hội nghị Paris chính là câu chuyện các nhà đám phán của ta thời đó đã vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, luôn kiên trì các vấn đề nguyên tắc, chiến lược nhưng rất linh hoạt, mềm dẻo về sách lược. Bác Hồ từng căn dặn cán bộ ta: Trong ngoại giao cũng như trong xử lý các tình huống phức tạp, “chính sách phải có cương, có nhu. Cương quá thì dễ gãy. Nhu quá thì hèn. Nói nên nhu. Làm nên cương”. Tại bàn đàm phán, ngoại giao của ta luôn biết hướng tới thắng lợi lớn toàn cục nhưng cũng biết giành từng thắng lợi nhỏ trong mỗi trận đấu, mỗi phiên họp. Biết tính toán kỹ lưỡng từng đường đi nước bước, chắc chắn, thận trọng nhưng không để rơi vào thế bị động. Kiên quyết phê phán những sai trái, khai thác chỗ yếu của đối phương nhưng có thái độ trọng thị với người đối thoại.