Cha tôi
Bao nhiêu là câu chuyện, bao nhiêu là cảm xúc buồn vui trong nghề viết của cha đi qua những ngày thơ ấu, những năm tháng tuổi học trò của tôi. Chúng hiện hữu hằng ngày, đều đặn, chầm chậm, âm thầm len lỏi trong ký ức - và bật ra trong tôi khát vọng được trở thành người làm nghề chữ nghĩa như ông.
Tôi không biết nên bắt đầu từ đâu.
Từ một buổi sáng xa xôi ở quê nhà Tùng Ảnh, khi tôi còn là đứa trẻ ngồi thu lu bên bậu cửa, hóng hớt chuyện chữ nghĩa với bạn báo, bạn văn của cha? Hay từ lần cuối cùng ông còn nhắc đúng tên tôi, trong cơn hoảng loạn của trí nhớ rối bời? Hay từ chính ánh mắt thất thần, hoang mang của ông mỗi khi hỏi: “Con Phong mô rồi?” - trong khi tôi đang ngồi rất gần, ngay trước mặt ông!
***
Cha tôi - nhà báo, nhà thơ Duy Thảo - sinh năm 1938 ở làng Đông Thái, xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Tuổi trẻ ông từng là lính cao xạ, được cử sang Liên Xô học sĩ quan tên lửa, sau về nước làm báo, làm thơ. Ở quê, người ta quen gọi ông là “nhà báo Duy Thảo” hay “nhà thơ Duy Thảo”, nhưng với chúng tôi, ông đơn giản là cha - người cha nghiêm khắc, nóng tính nhưng sâu sắc và tử tế.

Nhà báo Phan Thanh Phong (thứ 2 từ phải sang) đoạt giải Nhì cuộc thi viết Cha và con gái (Ảnh: Thuật Nguyễn)
Hồi còn bé, mấy chị em tôi đã nghe rất nhiều bà mẹ trong làng ru con bằng bài thơ một thời của cha tôi. Thậm chí khi làm phóng viên của Đài PTTH Hà Tĩnh, đi công tác miền núi Hương Khê heo hút, tôi vẫn nghe những bà già ở đó ru cháu bằng bài thơ ấy - bài Mừng chiến thắng trời quê. Bài thơ cha tôi sáng tác năm 1965 khi đang là lính cao xạ đóng quân ở Xuân Mai. Nghe Đài Tiếng nói Việt Nam phát tin Hà Tĩnh bắn rơi 12 máy bay Mỹ, ông xúc động, ngồi dưới lán viết. Bài thơ từng được NSƯT Xuân Năm ngâm cho Bác Hồ và Bộ Chính trị nghe nhân Hội diễn Văn nghệ toàn quốc năm đó tại Hà Nội, Bác khen hay, xúc động. Nhiều năm sau, trong các sự kiện kỷ niệm của tỉnh nhà, chị em tôi chứng kiến nhiều lần cha được mời đọc lại bài thơ này, nhiều nghệ sĩ ngâm và người trong giới văn nghệ nhắc đến bài thơ như một dấu mốc lịch sử của chiến thắng quê nhà.
Nghe những điều đó, chúng tôi tự hào về cha lắm.
***
Cha tôi hay cáu giận con cái, nhà lúc nào cũng ồn ào tiếng mắng mỏ của ông, nhưng tận thẳm sâu, ông là một người đa cảm. Có khi đến... yếu mềm.
Hồi chị em tôi còn nhỏ, sống trong ngôi nhà thôn quê Tùng Ảnh, cha tôi rất thích trồng hoa. Mảnh vườn nhà mùa nào cũng có khoảnh hoa rực rỡ đủ sắc. Ông đặc biệt thích hoa hồng và hoa thược dược. Sáng chủ nhật, ông thường pha trà, cắm hoa vào chiếc lọ thủy tinh cũ rồi ngồi một mình đọc báo, ngắm trời. Trong khung cảnh ấy, tôi nhìn thấy một con người khác nơi ông - lặng lẽ, hiền từ, nhân hậu.
Bực lên, cha tôi phạt con bằng roi vọt, nhưng xong lại ân hận, bù đắp thương yêu. Ông rất ghét sự gian dối. Thuở nhỏ chúng tôi nhiều lần bị cha “xử lý” bởi nghịch ngợm, ngông cuồng. Một lần, giữa trưa hè tôi theo chúng bạn qua cồn soi bên kia sông bẻ trộm ngô. Về tới nhà, ông không nói một lời, đánh tôi một trận ra trò, rồi bắt tôi ôm bó ngô sang tận nhà người ta xin lỗi. Em trai tôi cũng từng no đòn vì chọc ổi trộm. Vừa quật roi ông vừa tra khảo nó: “Cái gì trên bàn úp bát lại kia ?”. Nó thút thít: “quả ổi chín để phần cho cha mẹ”. Chiếc roi trên tay ông khựng lại. Ông lặng đi. Nhưng cuối cùng vẫn nghiêm mặt: “Bỏ ngay cái thói ăn cắp đồ không phải của mình đi!”.
Có lần vì cãi ông, tôi cũng bị ăn đòn, ức vì quá tôi bỏ ăn, đứng sau hiên nhà khóc suốt buổi. Ông sốt ruột, vào ra mấy lần liếc dò xem. Tôi vẫn đứng lì đó. Hết kiên nhẫn, ông vào pha cốc nước chanh kèm mấy viên B1, mang ra cho tôi uống (hồi đó B1 được coi như thuốc bổ để bồi dưỡng lúc ốm đau). Một lần khác, chị gái tôi bị mẹ đánh. Tối đó, cha lặng lẽ xoa dầu lên vết roi đỏ trên lưng chị. Ông không nói gì, nhưng ánh mắt ông không giấu nổi xót xa...
Thuở nhỏ mấy chị em tôi sống cùng mẹ ở quê nhà còn cha làm việc ở thành phố Vinh. Mỗi cuối tuần ông về quê cùng mấy mẹ con. Đó là những cuối tuần mấy chị em tôi phải sống trong kỷ luật nghiêm, nhưng cũng là khoảnh thời gian nhiều màu sắc của đời sống tinh thần cả nhà. Mẹ tôi thường chuẩn bị những bữa ăn tươi. Cha bắt mấy chị em bọc lại sách vở, kiểm tra bài, rồi thể nào cũng đưa ra mấy cuốn truyện, cuốn thơ mới mua từ thành phố. Chúng tôi tha hồ chí chóe giành nhau đọc.
Tôi nhớ những ngày mưa lạnh, co ro trong chăn dưới nếp nhà ngang, gió vặn xoắn rặng tre già nghe kẽo kẹt, lẫn trong tiếng cha đọc thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính... giọng trầm ấm, ngân nga. Những câu: “Thấy rét u tôi bọc lại mền...” tỉ tê len lỏi sâu thẳm hồn tôi tự bấy tới giờ. Tôi yêu văn chương chữ nghĩa và đi theo nghề viết cũng từ những ngày ấu thơ bên ông như thế.
Tôi biết làm thơ từ khá sớm. Bài thơ đầu tiên tôi viết vào năm học lớp 5, tên là ”Những dấu chân tròn”, viết về chú thương binh trong làng: sáng - chiều, với cây nạng gỗ,/vẫn ra thăm đồng /suốt kỳ lúa trổ. Và hình ảnh “những dấu chân tròn / xoáy bao dấu hỏi / bâng khuâng lòng em / dấu chân biết nói”.
Cha đọc xong khen tôi có phát hiện tinh tế và chọn đăng báo tỉnh. Bài thơ cũng được nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại chọn đăng trên Báo Nhân Dân và còn được một nhạc sĩ phổ nhạc gửi cho tòa soạn. Nhận tin đó, ông vui mừng lắm. Trong gia đình, ông coi tôi như một “truyền nhân”. Ông dõi theo mọi viết lách, sáng tác của tôi.
Thỉnh thoảng ông kiểm tra cặp sách vở của tôi, có khi còn lén mở cả cuốn nhật ký tôi giấu sâu trong giá sách, xem tôi có ghi chép thơ thẩn gì không. Khi phát hiện tôi làm bài thơ nào, ông góp ý. Có khi ông chê thẳng cánh khiến tôi ngượng ngùng. Nhưng cũng có lúc tôi cãi lại ông. Những lúc ấy ông bực lắm, nhưng thấy tôi cãi hăng, ông chùng xuống.
Trong nhà, ông rất khắt khe với con cái, nhưng với riêng tôi, ông gần như cho “miễn lao động tay chân” để tập trung bồi dưỡng năng khiếu môn Văn và làm thơ. Tôi nhớ những ngày đông lạnh cóng, mưa gió sụt sùi, đường làng bùn quánh chân người, ông từ Vinh về mang cho tôi đôi ủng nhựa. Hai cha con dắt díu nhau sang nhà thầy Hoằng - thầy giáo dạy Văn, cũng là bạn của cha. Cha gửi gắm tôi cho thầy kèm cặp, phụ đạo dăm buổi trước kỳ thi học sinh giỏi.
Những năm đó, tôi liên tục giật giải nhất, nhì môn Văn toàn tỉnh, còn được vào đội tuyển thi học sinh giỏi Văn quốc gia. Ông vui lắm. Ông động viên và càng kỳ vọng hơn khi tôi thi đỗ vào Trường chuyên Phan Bội Châu của tỉnh (Nghệ Tĩnh). Tiếp đó là những ngày tôi phải xa mẹ và các chị em, xa quê nhà Tùng Ảnh để ra thành phố Vinh học trường chuyên. Tôi sống cùng cha trong căn phòng nhỏ sát nơi làm việc của ông. Ông là Thư ký tòa soạn Báo Nghệ Tĩnh. Sáng sáng cha dậy rất sớm, ngồi trước chồng bản thảo dày cộp, chiếc kính trễ trên khuôn mặt nghiêm nghị. Ông đọc, duyệt bài, rồi đúng 6h sáng thì đun nóng đồ ăn, gọi tôi dậy ăn đi học.
Những ngày tháng học trường chuyên Phan Bội Châu ở Vinh, sống cùng cha, có lẽ là quãng thời gian tôi được thấm đẫm đời sống văn chương - được bồi đắp tâm hồn từ căn phòng nhỏ của hai cha con trong Tòa soạn báo tỉnh. Những cuộc trò chuyện của cha với bạn bè, đồng nghiệp; những tờ báo thơm mùi mực in mà ông hào hứng chờ đợi mỗi sáng ở phòng thư ký; những cuộc cãi vã nảy lửa giữa cha với cấp trên - đấu tranh cho một bài báo, một chi tiết, một quan điểm được xuất hiện trên trang nhất ngày hôm sau... Tất cả hiện lên sinh động.
Tôi còn nhớ những cuộc trà dư tửu hậu của cha với bạn bè văn chương, những câu thơ, bài thơ chấn động lúc ấy như: Đánh thức tiềm lực của Nguyễn Duy, Nói với con của Thạch Quỳ, Mùa xuân nhớ Bác của Phạm Thị Xuân Khải, Lấy chồng xứ Nghệ của Mai Hồng Niên... tôi được nghe đến thuộc làu từ căn gác đó. Những luận bàn, bình luận gai góc, tưng bừng giữa cha và các đồng nghiệp, tôi đắm mình vào, lúc căng lúc chùng - như chính mình là người trong cuộc.
Tôi cũng từng theo dõi những loạt bài điều tra do cha chỉ đạo - như loạt bài “Sợi dây thừng oan nghiệt” về cái chết bí ẩn của người dân đấu tranh chống tiêu cực đăng trên Báo Nghệ Tĩnh Chủ nhật – tờ báo tuần cha phụ trách. Những lá thư của độc giả từ khắp nơi trong tỉnh gửi về. Có người từ miền núi xa xôi, tay cầm tập đơn, vừa trình bày vừa khóc. Cha xót xa, mời họ ăn cơm, nghe trình bày, rồi cử phóng viên về tận địa phương điều tra.
Nhiều đêm cha thức khuya để viết, mệt quá ông nhờ tôi làm thư ký: ông đọc, tôi ghi lại, sau đó tôi đọc lại và ông sửa. Nhiều bài báo hôm sau ra đời từ bản thảo chữ tôi - những dòng chữ nguệch ngoạc vì cơn buồn ngủ...
Bao nhiêu là câu chuyện, bao nhiêu là cảm xúc buồn vui trong nghề viết của cha đi qua những ngày thơ ấu, những năm tháng tuổi học trò của tôi.
Chúng hiện hữu hằng ngày, đều đặn, chầm chậm, âm thầm len lỏi trong ký ức - và bật ra trong tôi khát vọng được trở thành người làm nghề chữ nghĩa như ông.
***
Tôi thi đỗ vào khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp năm 1989. Ông hài lòng lắm. Ông muốn tôi học văn chương. Ông yêu nghề và luôn mong tôi tiếp nối.
Những năm tháng sinh viên tôi như chim sổ lồng, bay nhảy, mộng mơ chân trời mới. Tôi sống xa nhà, cha tôi lo lắm. Hằng tháng, ông gom góp tiền từ nhuận bút gửi ra thủ đô cho tôi ăn học. Nhưng tôi giống tính ông - phóng khoáng, tiêu hoang. Tiền cha mẹ gửi chỉ luôn đủ dùng nửa tháng, nửa tháng còn lại tôi ký sổ hoặc vay mượn - mà toàn vay bạn bè cha.
Cứ cuối tháng nào tôi cũng đạp xe qua nhà chú Phan Huy Hiền, chú Nguyễn Sĩ Đại, chị Phương Sơn (ở Báo Nhân Dân), hoặc có lúc tôi vay luôn tiền thầy Nguyễn Hùng Vĩ - bạn của cha - ở ký túc xá Mễ Trì. Mỗi lần cha ra thủ đô thăm tôi, lần nào ông cũng phải đi một vòng trả nợ.
Có lần vay tiền chị Phương Sơn, tôi tỏ vẻ ái ngại, chị bảo: “Cần thì em cứ bảo nhé. Không ai thương con như ông Thảo, toàn dặn chị là: ‘Em nó cần cháu cứ đưa, khi nào chú ra chú gửi lại’”. Tôi nghe thấy ấm lòng, nhưng cũng giận mình - và thương cha vô hạn.
Tháng nào tôi cũng cố dặn mình phải tiết kiệm để đỡ phiền mẹ cha trả nợ. Nhưng không tháng nào tôi thực hiện được lời tự hứa.
Một lần, cha ra Hà Nội, tôi dẫn ông xuống nhà thầy Vĩ chơi – thực ra để trả nợ. Gặp cha, thầy Vĩ phàn nàn luôn: “Con Phong nó như đàn ông, chẳng biết tiết kiệm gì. Anh cắt một tháng cho nó biết tay”. Tôi lo, sợ cha sẽ “xạc” cho một trận trước mặt thầy. Nhưng ông chỉ nhẹ nhàng: “Thôi nó là con gái, nhiều khi cũng cần thêm chút tiền mua cái son cái phấn, cắn cái hạt dưa thầy ạ”. Thầy Vĩ cười toe toét: “Anh chiều thế nó hư đừng gọi em nhé!”
Rồi tôi ra trường, rồi tôi vào cơ quan báo chí ở tỉnh nhà.
Bài báo đầu tiên tôi viết, đưa cha xem, ông gạch nát cả trang. Những vệt bút đỏ như rạch sâu vào lòng tự ái tuổi mới lớn. Ông không chê tôi dở, chỉ gằn từng chữ: “Viết thế này à? Viết không tử tế thì đừng viết”. Ông bực thì chửi mắng không tiếc lời. Tôi giận lắm. Nhưng rồi lại cắm cúi viết - cho đến khi khuôn mặt ông dãn nở trước bản thảo bài, lòng tôi mới nhẹ lại.
Tôi làm báo tỉnh được một năm, một bữa đi làm về, ông gọi vào, đưa cho tờ Báo Nhân Dân, rồi bảo: “Đọc đi. Có giỏi thì thi vào Báo Nhân Dân ấy !”. Tôi cầm tờ báo có măng séc đỏ, một góc trang trong có mẩu tin nhỏ bằng hai bao diêm - tin mở thi tuyển phóng viên Báo Nhân Dân. Tôi nói : “Cha để con thử sức”.
Tháng sau, tôi đưa em gái út ra Hà Nội thi đại học, tiện thể tranh thủ làm thủ tục thi vào Báo Nhân Dân. Một tháng sau tôi nhận được thông báo trúng tuyển, gần như đứng đầu kỳ thi ấy, kèm thủ tục thuyên chuyển cán bộ về cơ quan báo Đảng. Cha tôi vui ra mặt. Nhưng ông cũng lo lắng, bởi nghĩ rằng “con ngựa bất kham” trong tôi đã có cơ hội tung bờm...
***
Tôi ra thủ đô, miệt mài xa cha mẹ, xa gia đình đằng đẵng 30 năm. 30 năm đó, cha hết kỳ vọng rồi thất vọng về tôi.
Ông muốn tôi, dù làm báo, vẫn không được bỏ thơ, văn, sáng tác. Nhưng tôi đã không chọn chuyên chú đường thơ như ông. Tôi thích làm báo.
Thỉnh thoảng tôi viết một bài thơ đăng đâu đó, ông gọi điện ngay, nhận xét từng câu từng chữ. Lúc nào cha cũng chốt một câu: “Phải tính mà ra một tập thơ đi con ạ”. Ông hào hứng cả tháng trời, rồi lại chờ đợi - để cuối cùng thất vọng khi tôi không trở thành nhà thơ.
Nhưng thất vọng hơn tất cả là tôi đã không trở thành một người có hạnh phúc trọn vẹn trong gia đình.
Nhà có ba chị em gái, chỉ riêng tôi đi lấy chồng là được ông viết tặng một bài thơ , ông đọc trong ngày trọng đại của đời tôi. Những câu ông viết ra từ gan ruột, cho đứa con gái mà ông đầy kỳ vọng nhưng cũng đầy âu lo. Khi hôn nhân của tôi đổ vỡ, ông buồn, mắng nhiếc tôi suốt mấy năm trời. Mắng trước mặt nhưng tôi ở xa, thi thoảng ông lại đóng thùng cam, thùng bưởi, cân cá biển, đồ thực phẩm gửi ra thủ đô cho mấy chị em, bao giờ trên bao bì cũng ghi rõ: Thanh Phong, Thanh Quý, Duy Phú (tên các em tôi) , bởi ông hiểu sở thích từng đứa, trong đó có thêm cả chút thiên vị nhiều khi lúc gửi ông chạnh lòng cả nghĩ.
Suốt nhiều năm tôi phụ trách một ấn phẩm báo Đảng, tờ báo mạnh về văn nghệ. Tôi làm báo bằng lòng tự trọng và sự say nghề, mà tôi luôn nghĩ nó đã được khởi nguồn trao truyền từ người cha nghiêm khắc của tôi tự ngày nào. Cũng suốt nhiều năm nắm giữ tờ báo trong tay, tôi đã duyệt đăng hàng ngàn bài thơ của biết bao tác giả, nhưng chưa bao giờ tôi nghe cha tôi đánh tiếng gửi thơ ông in trên tờ báo tôi phụ trách. Có lần, sếp Tổng Biên tập của tôi kể, đi công tác gặp cha tôi, sếp đề nghị ông gửi thơ để in Tết. Ông dặn: “Anh đừng in ở Nhân Dân hằng tháng, làm khó cho con tôi, người ta nghĩ con ưu ái cha...”.
Tôi làm báo cũng giữ nguyên tắc ấy. Có lần, nhà văn Đức Ban - người bạn văn thân thiết của cha tôi - gửi một bài ông viết về cha tôi và nhắn: “Thanh Phong xem có thể in trên Nhân Dân hằng tháng được không?”. Tôi đọc bài viết rất sâu sắc, nhưng đã trả lời: “Cháu gửi bài này sang báo khác được không? Cháu không muốn in trên tờ báo cháu đang làm ạ”. Một lúc sau, nhà văn Đức Ban nhắn lại: “Chú hiểu rồi. Con ông Thảo, không hổ danh”.
Cha tôi là người tự trọng cao, không bao giờ muốn ai phải “chiếu cố” mình. Muốn quan tâm, chăm sóc ông, chúng tôi luôn phải nghĩ cách thật tinh tế. Có lẽ tôi là người thường “đọc” được điều ấy ở ông. Năm cha tôi tròn 80 tuổi, các chị em tôi loay hoay không biết nên tặng cha quà gì. Tôi không nói với ai, sợ ông biết trước thì “hỏng việc”. Âm thầm, tôi tìm tư liệu, tập hợp các tác phẩm của ông qua nhiều năm, tuyển lại in thành cuốn: “80 bài thơ Duy Thảo” nhờ họa sĩ trình bày đẹp, nhã nhặn và có lời tựa chân thành tâm huyết của nhà văn Đỗ Chu, bạn thân ông . Sách in xong, tôi thuê xe chở về quê, đúng ngày mùng Một Tết dương lịch. Ông bất ngờ. Và rất vui. Tết ấy, ông rộn ràng tặng bạn bè văn chương và thỉnh thoảng nói: “Con Phong nó làm tặng tôi”, khiến lòng tôi cũng trào lên một niềm hạnh phúc lặng lẽ.
Mỗi lần tôi về quê thăm nhà, hết cẳn nhẳn thì ông lại chuyện trò về báo, về thơ. Ông nói: “Làm báo là một nghề tử tế. Nhưng phải sống bằng bạn đọc, không sống bằng quan hệ”. Câu đó, tôi học thuộc lòng - như học một nguyên lý nghề.
Với tôi, ông là người thầy đầu tiên. Ông bảo: “Viết không chỉ bằng tay, mà bằng cả lòng mình”. Ông dặn: “Không ai bắt con làm báo. Nhưng nếu đã chọn, thì đừng làm nó thành thứ nghề chắp vá. Người ta có thể quên tên con, nhưng đừng để người ta nhớ con vì một bài viết cẩu thả”.
***
Trước năm 1998, cha tôi công tác tại Báo Hà Tĩnh, Báo Nghệ Tĩnh. Nhưng phải tới khi nghỉ hưu, ông mới thực sự bước vào một chặng nghề cam go - làm Trưởng Văn phòng đại diện Báo Dân trí khu vực Bắc miền Trung, suốt gần 20 năm. Một mình phụ trách từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên - Huế, ông quán xuyến từng tin, từng cây bút, từng sự kiện. Đơn thư bạn đọc, ông đọc từng dòng. Phóng viên gửi bài, ông đọc kỹ đến từng dấu chấm, trả lời bằng email gọn ghẽ, không sót chữ nào.
Có lần, Báo Dân trí đăng bài điều tra sai phạm ở Trung tâm Y tế tỉnh - giám đốc lại là người quen của chị em tôi. Chúng tôi ngỏ lời với ông “xem xét”. Ông không đồng ý. Chúng tôi tỏ phản ứng, ông càng làm “căng”. Lần đó mấy chị em tôi giận ông lắm, bởi chúng tôi khó ăn nói với người bạn thân của gia đình. Nhưng sau đó chính người bạn cũng chia sẻ và chúng tôi hiểu, thấm thía rằng: dù quá nghiêm khắc nhưng cha tôi đã đúng, ông không vì thân quen mà lấn vạch. Chúng tôi tôn trọng ông điều đó. Ông làm việc tới năm 83 tuổi bởi nể trọng lời đề nghị cùng đồng hành của nhà báo Phạm Huy Hoàn, nguyên Tổng Biên tập báo điện tử Dân trí- người rất tin tưởng ông. Và khi ông Hoàn nói: “ Chúng ta được nghỉ ngơi rồi!” . Thì cả hai ông cùng rời vị trí quản lý tờ báo.
***
Mấy năm nay, cha tôi đã bị lẫn.
Sáng cha đi ngân hàng nhận lương, chiều lại đi nhận tiếp. Ông cãi nhau với mấy nhân viên ở đó. Chị gái tôi phải ra “thông cảm” với họ. Đêm, ông lục tủ, gói ghém đồ đạc thành bọc to và quả quyết: “Mai tôi về Tùng Ảnh”.
Có khi ông nằm lẩm nhẩm những câu thơ thuở nào và đọc hết cả bài không sai một chữ. Nhưng có khi nhìn tôi, ông hỏi: “Chị tìm ai thế?”. Rồi lại bảo: “Phong... con gái tôi cũng tên Phong. Mà nó bướng lắm”.
Tôi không khóc. Nhưng trong lòng có gì như vỡ nhẹ.
Chúng tôi thuê người chăm sóc ông. Có một bà giúp việc tên là bà Ban, rất tử tế. Một lần, bà lau mặt cho ông, ông nói: “Bà tốt với tôi quá. Nếu hồi trẻ mà gặp, tôi lấy bà rồi”. Cả nhà bật cười. Mẹ tôi - nằm giường bên - cũng cười. Ông quay sang, chép miệng: “Thế... ai lấy bà Phước?”.
Ông đã quên gần hết. Nhưng có hai điều ông không bao giờ quên: những bài báo, bài thơ - và một người đàn bà tên Phước.
Chị em chúng tôi suốt những năm tháng cha mẹ còn trẻ, khỏe, đã được vun đắp, chắp cánh để bay xa. Thăm thẳm những năm dài xa gia đình. Đến khi gần cha mẹ hơn thì cha mẹ đã yếu, đã lẫn. Nghĩ mà ân hận, xót xa.
Giờ đây, chúng tôi chăm chỉ về thăm cha mẹ hơn. Nhưng đâu còn chỉ là niềm vui sum vầy. Có nhiều đêm cha không ngủ, ngồi thì thào một mình trong bóng tối như đối thoại với ai. Nhiều đêm, tôi tỉnh giấc, lặng thức cùng cha mà lòng tê buốt.
Tôi đã viết những dòng thơ này trong một đêm như thế:
Cha
Cha ngồi đó, lặng như bóng chiều
Không còn giận dữ, chẳng còn lời trách mắng,
Không đòi vứt đồ hay đuổi con đi cho hả giận
Chỉ lặng im
Con ngồi, nhìn cha
Cha bây giờ hiền như đứa trẻ ngủ quên
Những năm tháng con sợ đòn roi
Con từng mong cha bớt nghiêm khắc,
Ước cha thôi cơn nóng giận,
Khao khát cha ôm con dịu dàng...
Giờ chỉ còn im lặng phủ thời gian...
Có phải cha đã lạc vào miền quên?
Có phải cha đang dạo bước trên con đường cũ,
Tìm về những năm tháng xa xưa?
Nơi vườn thược dược chị em con vì cha yêu hoa mà thay nhau chăm sóc
Nơi những trưa hè, tiếng rao vọng nỗi nhớ quê
Nơi bến sông của nỗi lo cơm áo bộn bề...
Con không muốn cha hiền lành thế này
Sự im lặng của cha làm tim con buốt nhói
Con ước căn nhà lại vang vang lời cha nói
Dù có những lời làm con buồn giận tháng năm...
Ôi sự lặng im hiền từ mà tàn nhẫn,
Cướp đi người cha mạnh mẽ của con,
Người cha xưa hay mắng con lời đắng cay
Giờ lặng im dạy con biết làm người trong giông bão...
Hà Nội, ngày 12 tháng 5 năm 2025
Nguồn Gia Đình VN: https://giadinhonline.vn/cha-toi-d208238.html