Ché rượu cần kể chuyện buôn làng Tây Nguyên

Từ buổi bình minh của đại ngàn, ché đã theo người Ê Đê, M'nông, Gia Rai... đi qua mùa rẫy, mùa hội, chứng kiến những lời thề nguyện bên bến nước, những tiếng khấn vọng về tổ tiên. Được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, ché trở thành ký ức sống động của cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Bên ché rượu cần, đồng bào dân tộc Tây Nguyên cùng nhau sum vầy. Ảnh: Việt Bắc

Bên ché rượu cần, đồng bào dân tộc Tây Nguyên cùng nhau sum vầy. Ảnh: Việt Bắc

Những ký ức gửi vào lòng ché

“Ché không nói, nhưng ché biết kể chuyện” - người Tây Nguyên vẫn thường nhắc như thế. Những câu chuyện ấy không phải bằng lời mà bằng vết rạn của men gốm, bằng mùi rượu cần ngọt cay, bằng sự hiện diện âm thầm trong từng ngôi nhà dài.

Mỗi khi tiếng chiêng ngân lên, vòng xoang uyển chuyển dưới ánh lửa bập bùng, men rượu trong ché lại dậy sóng, hòa quyện với tiếng cười, tiếng hát. Trong lễ hội voi trên vùng đất Krông Nô, tỉnh Đắk Lắk, dãy ché xếp hàng dưới nắng vàng khiến không gian trở nên linh thiêng và rực rỡ. Từ những vò rượu cần chảy ra men say nồng nàn, không chỉ là vị cay ngọt của núi rừng, mà còn là lời nhắn gửi của tổ tiên, là cầu nối vô hình giữa con người và cõi thiêng. Ché, trong khoảnh khắc ấy, trở thành biểu tượng của niềm tin, của sự sum vầy. Người già nâng chén rượu, kể lại chuyện xưa. Người trẻ cầm cần rượu, nối dài cuộc vui. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, nhờ có ché mà ký ức không bị đứt đoạn.

Những ai từng sống trong đời sống Tây Nguyên đều hiểu rằng, chỉ cần còn tiếng chiêng vang vọng, còn vòng xoang xoay tròn, còn men rượu được làm từ lá rừng, thì ché sẽ còn tồn tại. Chị H’ Len, dân tộc Ê Đê, trú tại buôn Krông B, xã Ea Tur, tỉnh Đắk Lắk cho biết, đối với người Tây Nguyên chúng tôi, ché rượu cần được xem như một vật linh thiêng, do vậy, nhiều loại ché có thể đổi lấy cả con trâu, con bò, thậm chí cả con voi. Ví dụ như ché tang dây thừng (tang Brăk) thuộc dòng ché tang cũ, có giá trị trao đổi bằng 4 con bò. Đó là loại ché trên thân đắp nổi 2 dây thừng (Bră) và bộ bát tiên gồm: Quạt ba tiêu, thanh kiếm, ngọc bảo, gậy trúc, hồ lô (bầu rượu), hoa sen, ống tiêu, giỏ hoa.

Trong ngôi nhà sàn ở buôn Ea Sin, xã Krông Buk, tỉnh Đắk Lắk, mẹ con bà Ami Thương thỉnh thoảng lại ngồi thật lâu trước chiếc ché cổ đã sạm màu thời gian. Bàn tay bà khẽ chạm lên lớp men cũ mịn như ngọc, đôi mắt ánh lên những hồi ức xa xăm. Mỗi chiếc ché đối với bà không chỉ là vật dụng, mà là ký ức, là cách để trò chuyện với ông cha tổ tiên. Có chiếc ché từng đổi bằng một con trâu mộng, đây là sự đánh đổi lớn lao với đời sống của người Tây Nguyên xưa. Có chiếc ché chỉ xuất hiện trong những dịp trọng đại: lễ cúng bến nước, lễ mừng nhà mới, lễ bỏ mả... Chính vì vậy, tuy còn nghèo khó và phải ở trong căn nhà đơn sơ với những vật dụng sinh hoạt giản đơn, nhưng bà Ami Thương và con gái vẫn cẩn trọng đặt ché ở chỗ trang trọng nhất. Với họ, giữ ché cũng là giữ hồn cốt văn hóa, để một ngày nào đó, con cháu còn biết tựa vào tiếng nói thiêng liêng của đại ngàn. Không chỉ riêng gia đình bà Ami Thương, với nhiều cộng đồng dân tộc Tây Nguyên, chiếc ché đã vượt khỏi ý nghĩa của một vật chứa, để trở thành chứng nhân của lịch sử, là vật linh thiêng gắn liền với sự sống còn của buôn làng.

Một số ché cổ còn lưu giữ tại Bảo tàng Đắk Lắk. Ảnh: Việt Bắc

Một số ché cổ còn lưu giữ tại Bảo tàng Đắk Lắk. Ảnh: Việt Bắc

Người Tây Nguyên không xem ché chỉ như đồ vật. Họ đối xử với nó như thành viên của gia đình. Khi một ché mới được đưa về, thường phải làm lễ cúng để “mời ché nhập làng”, cũng giống như đón một thành viên mới về buôn. Người ta tin rằng, trong men rượu ủ trong ché có linh hồn của đất trời, có hơi thở của tổ tiên, nên càng cần được trân trọng. Già làng Y Lang Ayun, trú tại xã Ea Kiết, tỉnh Đắk Lắk, là một người M'nông lâu năm gắn bó với vùng đất này, thường gọi ché là “vị khách linh thiêng” trong nhà. Trong gian khách nhỏ hẹp của ông, vài chiếc ché xếp hàng ngay ngắn, trầm mặc như những pho tượng gốm. Ông bảo, mỗi chiếc ché giống như một nhân chứng, đã từng chứng kiến biết bao biến cố: một mùa lúa mới, một lễ hội cồng chiêng, một cuộc chia ly, hay thậm chí một lời hẹn ước từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Biểu tượng của sung túc và tình đoàn kết

Ngày nay, trong những ngôi nhà sàn ở Buôn Đôn hay dọc các buôn làng vùng hồ Lắk, chiếc ché vẫn đứng đó, lặng lẽ nhưng bền bỉ. Với người Ê Đê, M'nông, Gia Rai..., ché vẫn là biểu tượng của sự sung túc. Nhà nào có nhiều ché, nhà đó được coi là giàu có, có uy tín trong cộng đồng.

Trong đời sống thường ngày, ché rượu cần còn mang một giá trị khác, đó chính là giá trị kết nối con người. Trong lễ cưới, khách quý được mời uống rượu cần từ ché. Trong lễ mừng nhà mới, bạn bè từ buôn làng xa gần tụ họp bên ché. Trong lễ hội, vòng xoang càng rộn ràng, ché càng được xem như trung tâm của sự đoàn kết, nơi mọi người cùng chung một niềm vui, một hơi men, một nhịp sống. Giữa những đổi thay nhanh chóng của thời hiện đại, khi rượu công nghiệp, rượu ngoại tràn ngập thị trường, người phụ nữ Ê Đê vẫn lặng lẽ lên rừng hái lá hem, vỏ cây, hạt rừng để làm men rượu bằng bí quyết truyền đời. Những viên men ấy được đặt vào lòng ché như gửi gắm cả sự chăm chút, yêu thương và niềm tự hào. Rượu cần vì thế không chỉ là thức uống, mà còn là kết tinh của thiên nhiên, của lao động, của tình yêu dành cho di sản.

Trong Bảo tàng Ama H’Mai ở phường Tân An, tỉnh Đắk Lắk, những chiếc ché cổ vẫn được trưng bày như minh chứng sống động cho lịch sử giao thương của Tây Nguyên. Có chiếc ché có nguồn gốc từ miền xuôi, từ các vương quốc láng giềng bên kia biên giới, được người Tây Nguyên gùi trên vai vượt núi, băng rừng mang về buôn làng từ thế kỷ XVIII, XIX. Trải qua thời gian, chúng không chỉ là vật phẩm trao đổi, mà đã trở thành linh hồn văn hóa. Người xưa còn dành cho ché sự tôn kính đặc biệt. Sau mỗi nghi lễ trọng đại, có chiếc ché được “lên ngôi”, được đặt tên riêng, trở thành vật thiêng thờ cúng tổ tiên. Có chiếc ché đi theo người đã khuất để làm của cải nơi cõi âm. Có chiếc ché trở thành hồi môn cho con gái trong ngày về nhà chồng, mang theo lời chúc phúc của cha mẹ, họ hàng. Bằng cách đó, ché không chỉ nằm trong góc nhà, mà còn gắn với vòng đời con người: sinh ra, trưởng thành, kết hôn, mất đi. Ché như một dòng chảy âm thầm, dõi theo từng chặng đường của cộng đồng.

Ngày nay, trước sự xâm nhập mạnh mẽ của nhịp sống hiện đại, ché rượu cần vẫn hiện diện như một biểu tượng văn hóa khó phai. Những buôn làng Tây Nguyên, cùng với sự chung tay của chính quyền và những người yêu văn hóa, đã và đang nỗ lực bảo tồn, đưa ché rượu cần trở thành một phần trong các lễ hội, trong đời sống cộng đồng, trong hoạt động du lịch văn hóa. Bởi nếu cồng chiêng là âm nhạc của đại ngàn, thì ché rượu cần chính là tiếng thì thầm của hồn đất, là giọt men kết nối con người với thiên nhiên, với tổ tiên, với nhau. Và hơn hết, đó là biểu tượng của một nền văn hóa biết nâng niu ký ức, biết giữ lấy cội nguồn trong từng nhịp sống hôm nay.

Việt Bắc

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/che-ruou-can-ke-chuyen-buon-lang-tay-nguyen-post494813.html