Chỉ số giá tiêu dùng 9 tháng tăng 3,16% so với cùng kỳ, tiếp tục kiểm soát tốt lạm phát

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2023 tăng 1,08% so với tháng trước. Tính chung 9 tháng năm nay, CPI tăng 3,16% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 4,49%.

Từ đầu năm đến nay, thị trường hàng hóa thế giới có nhiều biến động và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội. Xung đột quân sự Nga - Ucraina vẫn tiếp diễn, cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; nhiều quốc gia duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt; tổng cầu suy yếu; các nền kinh tế lớn đối mặt với tăng trưởng thấp; thị trường tài chính tiền tệ, bất động sản tại một số nước tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tình trạng thời tiết cực đoan diễn ra ở nhiều nơi, hạn hán kéo dài trên phạm vi rộng, bão lũ, thiên tai ở các quốc gia làm cho sản xuất lương thực mất cân đối. Lạm phát toàn cầu có xu hướng giảm dần sau thời gian các nước đồng loạt tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát cùng với giá năng lượng giảm nhưng so với mục tiêu dài hạn, mức lạm phát hiện tại vẫn ở mức cao đối với nhiều quốc gia.

Trong nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động, quyết liệt, sát sao chỉ đạo các Bộ, ngành triển khai nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế.

Nhiều giải pháp được tích cực triển khai như: Giảm mặt bằng lãi suất cho vay, ổn định thị trường ngoại hối; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; triển khai các gói tín dụng hỗ trợ các ngành, lĩnh vực; miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, tiền sử dụng đất, hỗ trợ doanh nghiệp; gia hạn visa cho khách du lịch; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản; công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện.

Theo đó, thị trường các mặt hàng thiết yếu không có biến động bất thường, nguồn cung được bảo đảm, giá hàng hóa tăng giảm đan xen.

Diễn biến giá một số nhóm hàng chính tháng 9/2023

Số liệu vừa công bố của Tổng cục Thống kê cho biết, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2023 tăng 1,08% (trong đó khu vực thành thị tăng 1,25%; khu vực nông thôn tăng 0,89%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 10 nhóm hàng tăng giá so với tháng trước, riêng nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,23%.

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)

Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+0,73%)

Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 9/2023 tăng 0,73% so với tháng trước, tác động làm CPI chung tăng 0,24 điểm phần trăm, trong đó lương thực tăng 3,19%, tác động tăng 0,12 điểm phần trăm; thực phẩm tăng 0,38%, tác động tăng 0,08 điểm phần trăm; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,54%, tác động tăng 0,04 điểm phần trăm.

Trong nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, chỉ số giá nhóm lương thực tháng 9/2023 tăng 3,19% so với tháng trước, trong đó chỉ số giá nhóm gạo tăng 4,23% (Gạo tẻ thường tăng 4,72%; gạo tẻ ngon tăng 2,94% và gạo nếp tăng 1,46%). Trong tháng 9, giá gạo trong nước tiếp tục tăng theo giá gạo xuất khẩu do nhu cầu nhập khẩu gạo của các thị trường tiêu thụ lớn như Philippines, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và châu Phi tăng trong khi Ấn Độ, Nga, UAE thực hiện cấm xuất khẩu gạo để bình ổn giá trong nước.

Trong tháng, giá gạo tẻ thường dao động từ 14.000 - 17.000 đồng/kg; giá gạo Bắc Hương từ 18.000 - 22.000 đồng/kg; giá gạo tẻ ngon Nàng Thơm chợ Đào từ 19.500 - 22.000 đồng/kg; giá gạo nếp từ 25.000 - 40.000 đồng/kg.

Giá gạo tăng tác động đến giá các mặt hàng lương thực chế biến và ngũ cốc khác như giá khoai tháng 9 tăng 2,99% so với tháng trước; bún, bánh phở, bánh đa tăng 2,32%; ngô tăng 2,3%; sắn tăng 0,96%; miến tăng 0,62%; mỳ sợi, mỳ, phở, cháo ăn liền tăng 0,34%; bột mỳ tăng 0,35%; bột ngô tăng 0,27%.

Giá thực phẩm tháng 9/2023 tăng 0,38% so với tháng trước, tập trung chủ yếu ở một số mặt hàng.

Cụ thể, giá thịt gia cầm tăng 0,69% so với tháng trước do nhu cầu tiêu dùng tăng vào dịp Lễ Quốc khánh 02/9, trong đó giá thịt gà tăng 0,55%; thịt gia cầm đông lạnh tăng 0,32%; thịt gia cầm khác tăng 1,11%.

Giá thủy sản tươi sống tăng 0,48% so với tháng trước do nhu cầu tăng, sản lượng khai thác giảm khi vào mùa mưa bão, tàu thuyền hạn chế ra khơi đánh bắt, trong đó giá cá tươi hoặc ướp lạnh tăng 0,53%, giá tôm tươi hoặc ướp lạnh tăng 0,48%. Theo đó, giá thủy sản chế biến tháng 9 tăng 0,31% so với tháng 8/2023.

Giá rau tươi, khô và chế biến tăng 1,07% so với tháng trước, chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ tăng cùng với giai đoạn giao mùa, thời tiết mưa nắng thất thường ảnh hưởng đến diện tích canh tác rau. Trong đó, giá bắp cải tăng 3,9% so với tháng trước; cà chua tăng 4,33%; su hào tăng 2,91%; đỗ quả tươi tăng 1,77%; rau gia vị tăng 1,59%.

Giá quả tươi, quả chế biến tăng 1,06% do nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này cao vào ngày Lễ Rằm tháng 7 Âm lịch. Trong đó, giá xoài tăng 5,12%; quả tươi khác tăng 0,69%; chuối tăng 0,35%.

Giá nước mắm, nước chấm tăng 0,41% so với tháng trước; giá chè, cà phê, ca cao tăng 0,33%; bánh, mứt, kẹo tăng 0,17%; đường, mật tăng 0,59% do nguyên liệu đầu vào và phí vận chuyển tăng.

Giá dịch vụ ăn uống ngoài gia đình tháng 9/2023 tăng 0,54% so với tháng trước, chủ yếu do giá nguyên liệu chế biến ở mức cao và nhu cầu du lịch trong tháng tăng vào dịp Lễ Quốc khánh 02/9. Trong đó, chỉ số giá ăn ngoài gia đình tăng 0,63% so với tháng trước; uống ngoài gia đình tăng 0,24% và đồ ăn nhanh mang đi tăng 0,29%.

Xem thêm bài viết: GDP 9 tháng tăng 4,24% so với cùng kỳ trên Tạp chí Công Thương tại đây.

Tháng 9, giá quả tươi, quả chế biến tăng 1,06% do nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này cao vào ngày Lễ Rằm tháng 7 Âm lịch.

Tháng 9, giá quả tươi, quả chế biến tăng 1,06% do nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này cao vào ngày Lễ Rằm tháng 7 Âm lịch.

Đồ uống và thuốc lá (+0,11%)

Chỉ số giá nhóm đồ uống và thuốc lá tháng 9/2023 tăng 0,11% so với tháng trước do nguyên liệu sản xuất đồ uống, thuốc lá và nhân công tăng. Cụ thể, thuốc hút tăng 0,19%; rượu các loại tăng 0,32%; nước khoáng tăng 0,11%.

May mặc, mũ nón, giày dép (+0,19%)

Chỉ số giá nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tháng 9/2023 tăng 0,19% so với tháng trước do giá nguyên phụ liệu sản xuất, chi phí nhân công và nhu cầu mua sắm chuẩn bị bước vào năm học mới tăng. Trong đó, giá vải các loại tăng 0,11%; quần áo may sẵn tăng 0,2%; mũ nón tăng 0,15%; giày dép tăng 0,23%; dịch vụ may mặc tăng 0,12%; dịch vụ sửa chữa giày dép tăng 0,22%.

Nhà ở và vật liệu xây dựng (+1,12%)

Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tháng 9/2023 tăng 1,12% so với tháng trước, tác động làm tăng CPI chung 0,21 điểm phần trăm do các nguyên nhân chủ yếu: Giá nhà ở thuê tăng 0,61% so với tháng trước do bước vào năm học mới nên nhu cầu thuê nhà tăng; Giá gas tăng mạnh 8,37% so với tháng trước, nguyên nhân là từ ngày 01/9/2023, giá gas trong nước điều chỉnh tăng 33.000 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới tăng 90 USD/tấn (từ mức 465 USD/tấn lên mức 555 USD/tấn); Giá nước sinh hoạt tăng 2,83%, giá điện sinh hoạt tăng 0,34% do nhu cầu tiêu thụ tăng; Giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,33% do chi phí ngày công lao động tăng; Giá dầu hỏa tăng 8,09%, chủ yếu do ảnh hưởng của đợt điều chỉnh giá ngày 05/9/2023, 11/9/2023 và 21/9/2023.

Ở chiều ngược lại, giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở giảm 0,06% so với tháng trước do giá thép giảm khi nhu cầu tiêu thụ chậm, cùng với đó giá thép sản xuất trong nước chịu áp lực cạnh tranh với giá thép nhập khẩu từ Trung Quốc.

Thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,12%)

Chỉ số giá nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tháng 9/2023 tăng 0,12% so với tháng trước, tập trung chủ yếu ở các mặt hàng như: Giá bàn là điện tăng 0,4%; trang thiết bị nhà bếp và đồ dùng bằng kim loại cùng tăng 0,39%; xà phòng và chất tẩy rửa tăng 0,25%; hàng dệt trong nhà tăng 0,19%...

Ở chiều ngược lại, giá nhóm thiết bị dùng trong gia đình gồm máy điều hòa nhiệt độ, tủ lạnh, máy giặt, thiết bị khác giảm 0,15% so với tháng trước do các siêu thị điện máy đồng loạt giảm giá các sản phẩm điện lạnh nhằm kích cầu tiêu dùng của người dân trong dịp Lễ.

Giao thông (+1,21%)

Chỉ số giá nhóm giao thông tháng 9/2023 tăng 1,21% so với tháng trước làm CPI chung tăng 0,12 điểm phần trăm, chủ yếu do: Ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng dầu trong nước vào ngày 05/9/2023, 11/9/2023 và 21/9/2023 làm cho giá xăng tăng 3,54% so với tháng trước; giá dầu diezen tăng 5,96%; Phí học bằng lái xe tăng 1,81%; giá dịch vụ trông giữ xe tăng 1,57%; giá bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,63%, trong đó giá sửa chữa xe máy tăng 0,65% và sửa chữa xe đạp tăng 0,19% do chi phí nhân công tăng.

Bên cạnh những dịch vụ tăng giá, có một số dịch vụ giảm giá trong tháng 9. Cụ thể, giá dịch vụ giao thông công cộng giảm 3,56% so với tháng trước, trong đó giá vận tải hành khách bằng đường hàng không giảm 16,46%; vận tải hành khách bằng đường sắt giảm 0,64%. Giá nhóm phương tiện đi lại giảm 0,06% so với tháng trước, trong đó giá xe ô tô mới giảm 0,04%; xe máy giảm 0,05%; xe ô tô đã qua sử dụng giảm 0,3%, chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ của người dân giảm vào tháng 7 âm lịch, trong khi nguồn xe tồn kho lớn khiến các doanh nghiệp giảm giá bán để kích cầu tiêu dùng.

Giáo dục (+8,06%)

Chỉ số giá nhóm giáo dục tháng 9/2023 tăng 8,06% so với tháng trước, trong đó dịch vụ giáo dục tăng 8,99% do một số địa phương thực hiện tăng học phí đối với các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông trên địa bàn theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Một số trường đại học công lập, dân lập, tư thục cũng tăng học phí năm học 2023-2024 để đảm bảo thu chi thường xuyên.

Bên cạnh đó, giá văn phòng phẩm tháng 9/2023 tăng 1,26% so với tháng trước, trong đó giá sách giáo khoa tăng 2,24%; giá vở, giấy viết các loại tăng 0,72%; giá bút viết các loại tăng 0,54%; giá văn phòng phẩm và đồ dùng học tập khác tăng 0,35%.

Văn hóa, giải trí và du lịch (+0,06%)

Chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tháng 9/2023 tăng 0,06% so với tháng trước, tập trung chủ yếu ở các nhóm: Giá hoa, cây cảnh, vật cảnh tăng 0,42%; dịch vụ du lịch trong nước tăng 0,25%.

Ở chiều ngược lại, giá dịch vụ du lịch nước ngoài giảm 0,37% so với tháng trước; khách sạn giảm 0,05%; dịch vụ văn hóa; thiết bị thể dục thể thao lần lượt giảm 0,05% và giảm 0,03%.

Hàng hóa và dịch vụ khác (+0,17%)

Chỉ số giá nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tháng 9/2023 tăng 0,17% so với tháng trước, tập trung chủ yếu ở mặt hàng đồ trang sức tăng 1,09%; dịch vụ cắt tóc, gội đầu tăng 0,25%; vật dụng và dịch vụ về hiếu hỉ tăng 0,2%.

Chỉ số giá vàng (+0,94%)

Giá vàng trong nước biến động ngược chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 25/9/2023, bình quân giá vàng thế giới ở mức 1.950,5 USD/ounce, giảm 0,29% so với tháng 8/2023. Kết thúc cuộc họp chính sách ngày 20/9/2023, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) quyết định giữ nguyên lãi suất, duy trì ở mức 5,25%-5,5%, cao nhất trong 22 năm, thúc đẩy xu hướng đi lên của đồng USD và lợi suất trái phiếu, làm giảm sức hấp dẫn của vàng.

Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 9/2023 tăng 0,94% so với tháng trước; tăng 4,91% so với tháng 12/2022; tăng 7,83% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 2,22% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá USD (+1,53%)

Đồng USD trên thị trường thế giới tăng trong tháng 9/2023. Ngày 20/9/2023, FED thông báo giữ nguyên lãi suất, duy trì trong biên độ 5,25% - 5,5%, đã đẩy lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm lên mức 4,5%, cao nhất trong 15 năm qua. Đồng thời, chỉ số US Dollar Index đã đẩy lên 105 điểm, mức cao nhất kể từ tháng 11/2022. Tính đến ngày 25/9/2023, chỉ số USD trên thị trường quốc tế đạt mức 104,61 điểm, tăng 2,02% so với tháng trước.

Trong nước, giá USD bình quân trên thị trường tự do quanh mức 24.274 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2023 tăng 1,53% so với tháng trước; tăng 0,35% so với tháng 12/2022; tăng 2,43% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 2,29% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng xu hướng tăng dần trở lại

So với cùng kỳ năm trước, chỉ số giá tiêu dùng các tháng đầu năm nay có xu hướng giảm và từ tháng 7 đến nay theo xu hướng tăng dần trở lại.

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)

Trong 9 tháng năm 2023, CPI tháng 01 tăng cao nhất với 4,89%, sau đó giảm dần đến tháng 6 mức tăng chỉ còn 2%, tháng 7 tăng ở mức 2,06%, tháng 8 tăng 2,96%, sang tháng 9 lên mức tăng 3,66%. Nguyên nhân chủ yếu do giá xăng dầu trong nước giảm theo giá thế giới làm cho chỉ số giá nhóm xăng dầu so với cùng kỳ năm trước liên tục giảm, từ mức giảm 7,08% trong tháng 01/2023 đã giảm mạnh 31,73% trong tháng 6/2023 và sang tháng 9, giá xăng dầu đã tăng 5,64% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 9 tháng năm 2023, CPI tăng 3,16% so với bình quân 9 tháng năm 2022.

Tiếp tục kiểm soát tốt lạm phát

Lạm phát cơ bản tháng 9/2023 tăng 0,26% so với tháng trước, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 9 tháng năm 2023, lạm phát cơ bản tăng 4,49% so với cùng kỳ năm 2022, cao hơn mức tăng CPI bình quân chung (tăng 3,16%).

Theo Tổng cục Thống kê, có một số nguyên nhân chính giúp Việt Nam kiểm soát được lạm phát trong 9 tháng đầu năm.

Trong đó phải kể đến chỉ số giá nhóm xăng dầu trong nước 9 tháng năm 2023 giảm 15,26% so với cùng kỳ năm trước theo biến động của giá thế giới, tác động làm CPI chung giảm 0,55 điểm phần trăm. Chỉ số giá nhóm gas trong nước giảm 10,21% theo giá thế giới, tác động làm CPI chung giảm 0,15 điểm phần trăm.

Nhóm hàng lương thực, thực phẩm, nhóm hàng có tác động lớn tới CPI, chiếm tỷ trọng khoảng 1/4 trong tổng chi tiêu dùng của dân cư, thường xuyên được các Bộ, ngành, địa phương thực hiện các biện pháp bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn giá do đó đã giúp cho kiềm chế tốc độ tăng của CPI.

Những dịch vụ do Nhà nước quản lý như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế đã được Chính phủ điều hành thận trọng trong thời gian qua. Giá điện sinh hoạt đã được EVN điều chỉnh từ ngày 4/5/2023 sau nhiều năm không tăng giá nhưng chỉ điều chỉnh tăng 3% cho nên tác động không nhiều tới chỉ số giá tiêu dùng.

Việt Hằng

Nguồn Tạp chí Công thương: http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/chi-so-gia-tieu-dung-9-thang-tang-316-so-voi-cung-ky-tiep-tuc-kiem-soat-tot-lam-phat-111643.htm