Chia sẻ 'gánh nặng' cho chính sách tiền tệ

Nền kinh tế Việt Nam đang bước vào quý cuối năm với nhiều biến số, đặc biệt là tác động từ chính sách tiền tệ của một số nền kinh tế lớn, cần phải giải quyết để đảm bảo ổn định vĩ mô trong khi vẫn tăng trưởng với tốc độ cao. TS. Phạm Thế Anh, Trưởng Khoa Kinh tế, Trường đại học Kinh tế Quốc dân đưa ra những kiến giải về vấn đề này.

TS. Phạm Thế Anh, Trưởng Khoa Kinh tế, Trường đại học Kinh tế Quốc dân

TS. Phạm Thế Anh, Trưởng Khoa Kinh tế, Trường đại học Kinh tế Quốc dân

TS. Phạm Thế Anh, Trưởng Khoa Kinh tế, Trường đại học Kinh tế Quốc dân

Trước sức ép của tỷ giá và lạm phát, ông đánh giá thế nào về công tác điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian gần đây?

Xuyên suốt từ đầu năm tới nay, thông điệp của của Chính phủ rất rõ ràng đối với chính sách tiền tệ là phải hỗ trợ tăng trưởng kinh tế; để thúc đẩy tăng trưởng phải hạ lãi suất, đồng thời có thể phải hy sinh một phần lạm phát để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8%. Hay nói cách khác, xu hướng xuyên suốt từ đầu năm tới nay là dùng chính sách tiền tệ để kích thích tăng trưởng thông qua duy trì lãi suất thấp, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng khoảng 20%, thậm chí còn cao hơn.

Gần đây đã có một chút điều chỉnh trong chỉ đạo đó là phải ưu tiên tỷ giá, kiểm soát lạm phát, nhưng ít nhất không được tăng lãi suất và tín dụng vẫn phải thúc đẩy. Điểm đáng chú ý trong 1 tháng qua đó là nền kinh tế đối mặt với sức ép lạm phát và tỷ giá, đặc biệt là câu chuyện tỷ giá.

Cụ thể, tỷ giá trên thị trường tự do cùng thời điểm này năm ngoái khoảng hơn 25.000 đồng/USD, nhưng trong năm nay có những lúc vượt lên trên 27.000 đồng/USD, nghĩa là đồng Việt Nam mất giá khoảng 7-8%. Thị trường ngoại hối chịu sức ép trước những biến động phức tạp của thị trường vàng, thị trường bất động sản

Hệ thống ngân hàng đang khó huy động được lượng lớn nguồn vốn dài hạn

Hệ thống ngân hàng đang khó huy động được lượng lớn nguồn vốn dài hạn

Vì sao tỷ giá lại được dành sự quan tâm rất lớn trong giai đoạn hiện nay?

Đối với nền kinh tế mở như Việt Nam, tỷ giá rất quan trọng, bởi nếu không ổn định sẽ không thúc đẩy được hoạt động thương mại cũng như đầu tư quốc tế. Nếu tỷ giá mất giá nhanh sẽ dẫn đến các hệ lụy: Thứ nhất, tài sản trong nước trở nên rất rẻ đối với người nước ngoài; thứ hai, tỷ giá bấp bênh khiến vốn ngoại không vào Việt Nam; thứ ba, gây cản trở cho hoạt động đầu tư FDI cũng như thương mại quốc tế.

Việt Nam ưu tiên mục tiêu tăng trưởng thì phải mở rộng tiền tệ và khi mở rộng tiền tệ sẽ phải duy trì lãi suất thấp, thúc đẩy tín dụng dẫn đến đồng tiền Việt Nam có xu hướng mất giá. Khi Việt Nam duy trì lãi suất thấp, lãi suất bên ngoài sẽ cao hơn một cách tương đối và dòng vốn ngoại sẽ lựa chọn dịch chuyển đến nơi có lãi suất cao. Hay nói cách khác, dòng vốn chuyển ra ngoài dẫn đến không duy trì được sự ổn định của tỷ giá.

Tóm lại, dùng chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng trong điều kiện dòng vốn ngoại ra vào tự do sẽ khó giữ được ổn định tỷ giá, còn nếu ổn định tỷ giá thì phải nâng lãi suất lên, không được dùng chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng. Giá trị đồng tiền trong nước được phản ánh qua lãi suất, lãi suất cao thì đồng tiền trong nước càng có giá trị và lúc đó, dòng vốn ngoại lại chảy vào. Nhưng lãi suất cao không thúc đẩy được tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế không đạt được mục tiêu đặt ra.

Câu chuyện ở đây tôi muốn đề cập là trong điều kiện dòng vốn di chuyển tự do, 2 mục tiêu ổn định tỷ giá và thúc đẩy tăng trưởng là mâu thuẫn nhau, chúng ta phải chấp nhận để đạt được mục tiêu này thì phải đánh đổi một phần mục tiêu khác.

Dư địa chính sách tiền tệ không còn nhiều, đây là nhận định của nhiều định chế tài chính trên thế giới, ông có bình luận gì?

Từ đầu năm tới nay, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cùng với lãi suất duy trì ở mức thấp, nhưng quan trọng hơn cả là đến thời điểm hiện tại, dư địa chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng đã hết. Nguyên nhân bởi:

Một là, tỷ lệ tín dụng trên GDP cao, trên 140%; tỷ lệ cung tiền trên GDP cũng rất cao, trên 160%. Trong khi đó, các nước trong khu vực ASEAN chỉ khoảng từ 50-120%. Các tỷ lệ này cho thấy nền kinh tế phụ thuộc vào tín dụng, cung tiền rất nhiều.

Hai là, liên quan đến lãi suất thực. Chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi với lạm phát thực tế là gần như không có. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến hệ thống ngân hàng khó huy động được lượng lớn nguồn vốn dài hạn. Người dân gửi tiền kỳ hạn ngắn để tìm kiếm cơ hội trên các thị trường tài sản khác. Vậy nên phát sinh thêm vấn đề, thị trường trái phiếu được “chiếm lĩnh” bởi các tổ chức tín dụng. Cho vay sản xuất - kinh doanh phụ thuộc tín dụng ngân hàng và thị trường trái phiếu cũng phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.

Ba là, chênh lệch giữa lãi suất trong nước và lãi suất đồng đô-la Mỹ trên thị trường quốc tế hiện đang âm. Lãi suất cho vay của Chính phủ Mỹ là 5-6%/năm, trong khi lãi suất Chính phủ Việt Nam là 3-4%/năm, do đó không tạo sức hấp dẫn và dòng vốn ngoại chuyển ra ngoài.

Bốn là, như trên tôi đã đề cập, tỷ giá căng thẳng trong mấy tháng gần đây. Nếu tiếp tục phụ thuộc chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng, căng thẳng tỷ giá còn dai dẳng, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục phải bán ra ngoại tệ nếu không muốn VND mất giá nhanh. Dự trữ ngoại hối đã sụt giảm từ khoảng 110 tỷ đô-la Mỹ cách đây 2-3 năm, hiện chỉ còn hơn 70 tỷ đô-la Mỹ cho xấp xỉ 6-7 tuần nhập khẩu.

Câu chuyện thúc đẩy tín dụng và giữ lãi suất thấp hiện nay tác động như thế nào đối với nền kinh tế, thưa ông?

Lạm phát tăng, tâm lý của người dân là phòng thủ, tiết kiệm chi tiêu, sức mua giảm nên sản xuất, tiêu dùng bị hạn chế. Dòng vốn hạn chế vào hoạt động sản xuất - kinh doanh, mà chảy giữa các thị trường tài sản như chứng khoán, vàng, ngoại tệ và đặc biệt là đầu cơ bất động sản dẫn đến nguy cơ tạo “bong bóng” trên thị trường này.

Chính sách tiền tệ không phải là công cụ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mà là để giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Chính phủ chỉ nên mở rộng chính sách tiền tệ khi nền kinh tế suy thoái, có khó khăn thì hạ lãi suất trợ giúp người dân, doanh nghiệp phục hồi, giảm bớt khó khăn. Khi nền kinh tế tăng trưởng cao hay quá nóng, xuất hiện sức ép lạm phát, bất ổn tỷ giá thì phải thắt chặt lại và không có cách nào khác là phải tăng lãi suất lên. Muốn giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, kiểm soát được tỷ giá thì phải dùng công cụ lãi suất. Lãi suất là công cụ thiết yếu của chính sách tiền tệ.

Các định chế tài chính đều khuyến nghị Việt Nam cần đồng bộ các chính sách khác song hành với chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong dài hạn, quan điểm ông về vấn đề này?

Đúng vậy, đó là chính sách tài khóa và các chính sách liên quan đến tái cấu trúc nền kinh tế, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia để thúc đẩy tăng trưởng dài hạn.

Ví dụ, đối với chính sách tài khóa là đầu tư vào các cơ sở hạ tầng thiết yếu. Trong ngắn hạn, việc chi tiêu cho cơ sở hạ tầng sẽ tạo ra sức mua trong nền kinh tế, tức là những doanh nghiệp cung ứng dịch vụ sản xuất liên quan tới cơ sở hạ tầng xây dựng có thu nhập sẽ tăng chi tiêu. Về dài hạn, khi các cơ sở hạ tầng hoàn thành, đi vào sử dụng sẽ giúp môi trường kinh doanh tốt lên, thu hút được nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. Khi đó, khoản đầu tư được coi là hiệu quả. Đường xá đi lại thuận tiện, vận chuyển hàng hóa dễ hơn, cơ sở hạ tầng tốt hơn sẽ phục vụ cho sản xuất - kinh doanh, thu hút đầu tư.

Nếu cơ sở hạ tầng xây xong mà không thu hút được nguồn lực của tư nhân và nước ngoài đầu tư vào sản xuất - kinh doanh thì đó là các dự án đầu tư kém hiệu quả. Nhà nước không thể có nguồn lực để mở rộng đầu tư mãi được. Do vậy, điều quan trọng là cần xem xét quy hoạch đã đồng bộ chưa, quy hoạch đã trong tổng thể chưa. Như khi sân bay Long Thành được xây dựng xong, hệ thống đường bộ, đường sắt… kết nối với trung tâm TP.HCM như thế nào? Các tỉnh đề xuất mở sân bay quốc tế song song với việc xây đường sắt cao tốc Bắc - Nam, nếu hoàn thành, chúng ta đã tính toán việc khách hàng sẽ lựa chọn phương tiện di chuyển nào, liệu có dư thừa công suất không? Nguồn ngân sách cho các dự án này lấy từ đâu? Liệu có đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô hay không?

Bộ Công thương liên quan đến câu chuyện hàng hóa xuất khẩu và quan trọng nhất là quy hoạch ngành. Đây là bài học của Nhật Bản, trọng tâm phát triển ngành nào, khi xác định được mũi nhọn thì phải dành nguồn lực, phải có chính sách khuyến khích, hỗ trợ để phát triển. Một trong những phương thức tăng trưởng kinh tế là phải thay thế được nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu, gia tăng giá trị trong nước, tạo ra thu nhập nội địa. Bên cạnh đó là câu chuyện thúc đẩy nghiên cứu phát triển, phục vụ tiến bộ công nghệ, tăng chi trong ngân sách nhà nước cho nghiên cứu, phát triển, thu hút và sử dụng được nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho quá trình phát triển lâu dài.

Hồng Dung thực hiện.

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/chia-se-ganh-nang-cho-chinh-sach-tien-te-post376964.html