Chiếc khăn len màu xanh
Bốn mươi năm quê hương giải phóng, cũng gần từng ấy năm bà ngoại tôi từ giã cõi đời. Mỗi năm đến ngày giỗ bà, dù lấy chồng nơi xa, tôi vẫn tìm về quê hương nguồn cội để được thắp nén hương trên mộ bà, được đứng trước di ảnh của bà mà hồi tưởng lại tất cả những gì về người bà kính yêu của mình.
Trong rất nhiều những hình ảnh về bà ngoại lúc còn sống, thì hình ảnh khắc sâu, đậm nét trong tôi hơn cả là vẻ mỏi mòn, đợi trông của bà dành cho người con trai duy nhất tập kết ra Bắc trong những ngày đầu quê hương vừa giải phóng.
Hồi ấy tôi đã mười sáu, mười bảy tuổi, cái tuổi đã đủ lớn, đủ nghĩ suy, để hiểu được tất cả những gì đang ngày ngày diễn ra, giằng xé trong lòng bà. Bà năm ấy đã ngoài tám mươi tuổi, mắt đã mờ, chân đã chậm, nhưng trí nhớ của bà vẫn còn minh mẫn lắm.
Tôi vẫn nhớ như in cái buổi chiều hôm ấy, một buổi chiều cuối tháng Tư, năm bảy lăm. Bà ngồi trên chiếc chõng tre, miệng bỏm bẻm nhai trầu, còn tôi thì ngồi cạnh học bài.
Tháng Tư, đã về chiều mà ngoài trời vẫn nắng chang chang. Ánh nắng xuyên qua kẽ lá rọi vào nhà, đong đưa từng đốm sáng trên vai áo của bà.
Bỗng đâu đó từ ngoài đường vang lên tiếng loa thông báo tin miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bà lớ quớ đứng dậy, chầm chậm bước ra sân. Đôi mắt già nua của bà như chợt sáng bừng lên, chớp chớp liên hồi. Rồi giọng bà cất lên khe khẽ:
- Hai ơi, vậy là con đang trở về với má. Má đợi cái ngày này lâu quá rồi con ơi!
Tôi thấy trên hai gò má nhăn nheo của bà hai giọt nước mắt lăn ra.
Bà ngoại tôi chỉ có hai người con, là cậu Hai và má tôi. Cậu Hai là anh, má tôi là em. Ông ngoại tôi mất khi cậu Hai và má tôi còn đang rất nhỏ. Nghe bà tôi kể lại thì ông ngoại tôi hồi ấy là du kích chín năm. Ông là một xã đội trưởng gan dạ, từng chỉ huy nhiều trận đánh nổi tiếng khắp vùng. Vì vậy mà bọn Tây mới chỉ nghe tên ông đã phải lấy làm khiếp sợ.
Nhưng rồi ông đã hy sinh trong một lần bị địch phục kích ở đồi Đầu Gà. Bà ngoại tôi từ khi ông mất đã ở vậy thờ chồng nuôi con, không đi bước nữa.
Năm 1954, cậu Hai tôi lúc ấy vừa tròn hai mươi tuổi đã lên tàu ở vụng Hòn Khoai tập kết ra Bắc. Ngày cậu đi, bà tiễn cậu ra tận bến tàu. Bà kể, hai mẹ con đi bên nhau, nói với nhau bao nhiêu chuyện cũng không hết. Bà dặn cậu ra ngoài đó phải giữ gìn sức khỏe, làm việc cho đoàn thể phải chu đáo, lâu lâu có ai vào trong này thì gửi cho bà lá thư để bà mừng.
Bà quàng lên cổ cậu tấm khăn len màu xanh nước biển và nói cho cậu biết thời tiết ngoài miền Bắc vào mùa đông rất lạnh, con mang theo cho ấm. Hình ảnh cuối cùng bà còn lưu giữ về người con trai của mình, là khi tàu kéo một hồi còi dài, từ từ rời bến, cậu Hai đã bước hẳn lên trên bong tàu, nhìn về phía bà, vẫy vẫy cả hai tay cho đến khi con tàu lao nhanh ra giữa biển.
Bà đã khóc nhìn theo con và đứng ở bến tàu cho đến khi không còn ai nữa mới trở về nhà. Từ ấy là những năm tháng dài chờ đợi, ngóng trông. Tóc bà bạc dần theo thời gian mà tin tức về người con trai vẫn bặt vô âm tín.
Nhớ thương con nhưng bà lại mừng cho con, tự hào về con. Bởi bà biết, con trai bà đã và đang bước tiếp trên con đường mà cha nó đã từng đi năm xưa. Nơi phương trời xa xôi ấy, con trai bà sẽ trở thành một người chiến sĩ cách mạng, làm việc có ích cho dân, cho nước.
Có lẽ đó là niềm an ủi, động viên lớn lao nhất đối với bà trong những ngày cậu Hai tôi tập kết ra miền Bắc. Bà mong từng giây từng phút ngày đất nước thống nhất để cậu Hai trở về...
Hôm nay, ngày ấy cũng đã đến. Đất nước đã độc lập, thống nhất, không còn tiếng súng, không còn quân xâm lược. Mọi người đổ ra đường, hân hoan vui mừng chiến thắng. Nhưng trong lòng bà thì vẫn nặng trĩu một nỗi lo. Bởi đã gần một tháng trôi qua rồi mà sao chẳng thấy con trai bà trở về. Nhìn sang nhà hàng xóm, bà thấy nhà ai cũng tấp nập người ra kẻ vào. Mọi nhà mở tiệc liên hoan, mừng cháu con đoàn tụ, vợ gặp chồng, cha gặp con... sau hai chục năm xa cách. Nhìn cảnh ấy bà lại rơm rớm nước mắt. Lòng bà trở nên quặn thắt, đớn đau. Không biết đã bao nhiêu lần bà tự hỏi một mình:
- Hai ơi, con đang ở đâu, sao con không về cùng mẹ?
Chẳng một đêm nào bà ngủ trọn giấc. Chẳng một ngày nào mà bà không ngồi ở chõng tre ngóng về phía con đường cái trước mặt. Ban đêm chỉ cần một tiếng động nhỏ ngoài sân cũng làm bà giật mình tưởng rằng đó là tiếng bước chân con trai trở về. Ban ngày thì chỉ cần thấy bóng ai đó thấp thoáng ở xa xa bà cũng nghĩ đó là con trai mình. Bà chống gậy đi khắp làng trên xóm dưới hỏi han người này, người kia, gặp ai bà cũng nhờ giúp đỡ tìm cậu Hai. Tôi thương ngoại lắm nhưng cũng chỉ biết động viên bà bằng những câu chuyện mà tôi cố tưởng tượng ra về cậu tôi để an ủi bà. Tôi thường nói với bà là do cậu còn bận công tác, bởi sau ngày giải phóng, đất nước có rất nhiều việc phải làm, rất nhiều việc đòi hỏi mọi người phải chung tay góp sức, nên cậu không thể về với bà sớm được. Tôi còn nói, cũng có thể do cậu gặp phải một hoàn cảnh riêng tư nào đó cần giải quyết ổn định rồi mới có thể về quê. Bà nghe và chỉ im lặng không nói gì.
Một năm trôi qua, vẫn không một tin tức gì về cậu Hai tôi. Bà tôi thì ngày một già thêm. Lưng bà đã còng hẳn xuống. Bước đi đã trầy trật, run rẩy. Có lẽ sự đợi trông mỏi mòn đã làm bà ngoại tôi già và yếu đi nhanh chóng. Rồi một năm nữa trôi qua! Cậu tôi vẫn không trở về. Bằng linh tính của người già, bà như đoán biết được mọi chuyện. Một hôm, bà nói với mẹ tôi:
- Út ơi, hay... hay... như người ta nói, thằng Hai anh con, nó... nó... đã không còn?
Nói rồi bà lặng đi. Bà không khóc, nhưng tôi biết bà đang rất đau khổ. Mẹ tôi ôm lấy bà an ủi:
- Chiến tranh mà má, có chuyện gì là không xảy ra. Nhưng mình cứ hy vọng điều tốt lành má à!
Tôi bỗng nhớ lại những năm tháng khi đất nước chưa độc lập. Cả tuổi thơ của tôi ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Làng xóm tan hoang vì bom đạn. Bà ngoại tôi trong những năm tháng ấy đã phải chịu bao cơ cực trước những đợt dồn dân lập ấp, hay những đợt tố cộng thảm khốc của kẻ thù. Nhưng bà đã vượt qua tất cả, trụ vững trên chính mảnh đất quê hương mình. Bà còn là người bà đùm bọc, chở che tôi từng ngày lớn lên. Bà luôn nuôi hy vọng ngày nước nhà độc lập, không còn chiến tranh, mọi người được sống và làm ăn trong hòa bình. Và có một điều, bà ít nói ra, nhưng tôi biết đó là niềm hy vọng, nỗi ước ao lớn nhất của bà. Đó là ngày mà cậu Hai, người con trai duy nhất của bà sau mấy chục năm xa nhà tập kết ra Bắc sẽ trở về.
Bà ngoại tôi đã sống lay lắt với niềm hy vọng mỗi ngày một lụi tàn đi trông thấy. Bà không tin là cậu Hai sẽ trở về nữa. Bởi, theo bà, nếu cậu Hai còn sống thì cậu ấy đã trở về rồi. Không biết làm gì hơn, bà chỉ còn biết ngày ngày ăn chay niệm Phật, cầu mong cho con trai sống khôn thác thiêng, mọi bề tốt đẹp. Bà chưa một lần khóc thành tiếng nhưng hai khóe mắt bà lúc nào nhòa nước.
Rồi đến một ngày nọ bà ngoại tôi đã vĩnh viễn ra đi chỉ sau một trận ốm mấy ngày. Bà mất nhưng hai mắt bà chỉ khép hờ như còn muốn trăn trối điều gì. Má tôi phải vuốt vuốt mấy lượt mắt bà mới khép hẳn lại. Tôi hiểu vì sao như vậy. Tôi hiểu vì sao mà bà tôi ra đi lại không được thanh thản như mong đợi của con cháu. Hẳn bà còn chưa được yên lòng, chưa được toại nguyện về cậu Hai tôi. Bà mất đi mà không một lần được gặp lại con. Đau thương hơn, ấy là bà còn không biết con mình sống chết ra sao.
Mọi suy nghĩ của bà về con chỉ là phỏng đoán, chỉ là linh tính mách bảo mà thôi. Vì thế mà sự ra đi của bà còn chồng chất bao nỗi băn khoăn, day dứt. Điều an ủi duy nhất đối với má con tôi, ấy là dưới ba tấc đất, bà ngoại tôi sẽ “gặp” được cậu Hai tôi. Mẹ con sẽ trùng phùng bên nhau như những tháng ngày xa xưa khi bà còn ở cạnh cậu. Biết đó chỉ là ao ước thuộc về tâm linh nhưng trong lòng chúng tôi, những người thân thích ruột thịt của bà cũng lấy đó làm nguồn động viên, an ủi trước mất mát lớn lao này.
Sau ngày bà mất không lâu, đúng lúc gia đình tôi đang làm lễ bốn chín ngày cho bà thì có một người đàn ông lạ mặt tìm đến. Người khách ấy đã vượt cả ngàn cây số từ Bắc vào đây chỉ là để gặp cho được bà ngoại tôi. Khi biết bà tôi đã mất ông sững người đi một lúc, rồi tự ca cẩm một mình: “Vậy là tôi đã đến chậm mất rồi, đến chậm mất rồi...”. Trên khóe mắt ông lăn ra hai giọt lệ. Qua câu chuyện của người khách, đến lúc này gia đình tôi mới chắc chắn là cậu Hai đã mất. Ông là đồng đội cũ của cậu Hai khi cậu còn sống.
Theo như lời ông kể thì cậu Hai sau khi ra đến miền Bắc đã nhập ngũ vào quân đội, rồi trực tiếp vào chiến đấu tại chiến trường Khu Bốn. Ông khách kể rằng, khi cậu Hai tôi bị thương nặng, lúc hấp hối, cậu cũng đã kịp dặn ông là sau này nước nhà thống nhất, nhờ ông vào Nam tìm và gặp cho bằng được bà ngoại tôi.
Ông khách đã hứa với cậu tôi khi đó là nhất định bằng mọi giá ông sẽ thực hiện lời hứa với cậu tôi. Ông trao lại cho gia đình tôi chiếc ba lô của cậu mà ông gìn giữ cẩn thận. Trong ấy, ngoài mấy thứ đồ tư trang còn có cả chiếc khăn len màu xanh nước biển.
Chỉ cần thoáng nhìn qua, tôi cũng biết đó là chiếc khăn mà bà ngoại tôi đã quàng cho cậu Hai tôi ngày bà tiễn cậu lên đường ra Bắc tập kết. Lạ thay, đã bao năm tháng trôi qua mà chiếc khăn len vẫn như còn nguyên nếp gấp, vẫn mới, vẫn ấm. Và đặc biệt, từ chiếc khăn vẫn như tỏa ra hương vị của đồng đất quê nhà, của trầu cau bà tôi thường ăn, của mồ hôi, nước mắt... từ bà ngoại tôi, cậu Hai tôi và bao người ruột thịt thân yêu khác...
Nguồn Quảng Trị: http://www.baoquangtri.vn/van-hoa/chiec-khan-len-mau-xanh/180936.htm