Chiếm hữu tiền chuyển nhầm vào tài khoản là vi phạm pháp luật
Bạn đọc phản ánh đến Báo Công an TPHCM về tình trạng chuyển tiền nhầm vào tài khoản của người khác, mà lý do trước khi chuyển đã không kiểm tra đúng số tài khoản (vì na ná gần giống) và không kiểm tra họ tên người chủ tài khoản.
Tuy nhiên, nhiều trường hợp "méo mặt" vì rất khó khăn đi đòi lại tiền đã chuyển nhầm... Vậy, người chiếm hữu tiền chuyển nhầm có vi phạm pháp luật hay không?
Nhầm một giây, vất vả dài dài
Chị N.T.S (ngụ tỉnh Lâm Đồng) cho biết, giữa tháng 6/2024, với yêu cầu của một người khách hàng, chị S. đã chuyển khoản 10 triệu đồng, nhưng bị nhầm do số tài khoản khá giống, tuy nhiên "dài hơn hai chữ số". Chưa hết, do công việc bận rộn, chị S. cũng không kiểm tra có đúng họ tên người chủ sở hữu số tài khoản đó hay không, nhưng vẫn "bấm nút" chuyển. Cho đến khi người thụ hưởng báo vẫn chưa nhận được tiền, chị S. kiểm tra "lệnh" chuyển khoản mới tá hỏa vì... chuyển nhầm.
Nhận được trình báo của chị S, chi nhánh ngân hàng tại địa phương (nơi chuyển) yêu cầu chị S. làm giấy tờ, các thủ tục cần thiết rồi báo với phía ngân hàng có tài khoản thụ hưởng (vì khác ngân hàng). Vì quy định bảo mật thông tin chủ tài khoản, nên phía ngân hàng cử cán bộ liên hệ, vận động người nhận tiền chuyển nhầm để trả lại cho chị S. Tuy nhiên, từ chỗ không nghe điện thoại, cho đến khi liên lạc được, thì chủ tài khoản nhận tiền chuyển nhầm của chị S. lại có ý "không hoàn trả” tiền chuyển nhầm. Lúc này, phía ngân hàng buộc phải thực hiện các bước theo quy định để "đòi" lại tiền chuyển nhầm cho chị S. Trường hợp phía nhận tiền chuyển nhầm vẫn kiên quyết không trả, thì bước tiếp theo sẽ là chuyển hồ sơ vụ việc đến Công an địa phương nơi chủ tài khoản đã nhận tiền chuyển nhầm để nhờ can thiệp.
Tương tự như chị S, có trường hợp tài khoản nhận tiền chuyển nhầm, nhưng cùng một ngân hàng, nên phía ngân hàng phải can thiệp giúp người "lỡ" chuyển nhầm nhận lại tiền. Cũng có trường hợp oái oăm mà phía ngân hàng cho biết, ông M. chuyển nhầm 100 triệu đồng vào một tài khoản cùng ngân hàng. Tuy nhiên, khi nhận được yêu cầu giúp đỡ của người chuyển tiền nhầm, thì phía ngân hàng cũng "mệt mỏi" hơn nữa, vì biết được chủ nhân của số tài khoản nhận được tiền chuyển nhầm không xài số tài khoản này đã nhiều tháng qua. Chưa hết, khi lặn lội đến địa chỉ đăng ký, thì chủ nhân của số tài khoản đã không có mặt ở địa phương thời gian dài Cuộc tìm kiếm cứ thế tiếp tục "kéo dài" chỉ vì thiếu kiểm tra xác thực, bấm nút chuyển nhầm trong tích tắc, để rồi cuộc chuyển trả tiền kéo dài vất vả.
Trong nhiều trường hợp gần đây phản ánh, cho thấy vì lý do nào đó mà vô ý chuyển nhầm tiền cho người khác, những khoản tiền từ vài triệu cho đến hàng trăm triệu đồng. Nhiều trường hợp rất hợp tác, chuyển trả hoặc thông báo tiền chuyển nhầm để ngân hàng xử lý, hoặc báo ngay đến cơ quan Công an. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp vẫn "cố tình" chiếm hữu. Vậy trong trường hợp cố tình chiếm hữu, hoặc sử dụng số tiền mà người khác chuyển nhầm, có vi phạm pháp luật hay không?
Nhận được tiền chuyển nhầm mà cố tình chiếm hữu, sử dụng thì bị xử lý thế nào?
Nhiều người khi nhận được tiền chuyển nhầm vào tài khoản, dù đã biết (phía ngân hàng thông báo và có yêu cầu) là tiền chuyển nhầm, nhưng vẫn cố ý không hoàn trả và rút ra để sử dụng. Về vấn đề này, Bộ luật Dân sự 2015 quy định rất rõ ràng mà mọi người cần lưu ý. Theo khoản 1, Điều 105 quy định, tiền chính là tài sản, bên cạnh vật, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Khoản 1, Điều 165 quy định, các trường hợp mà việc chiếm hữu tiền (chiếm hữu tài sản) được xem là có căn cứ pháp luật. Đối chiếu với các trường hợp này thì người nhận tiền do chuyển khoản nhầm là việc "chiếm hữu tài sản" không có căn cứ pháp luật. Điều 579 đến 583 quy định rõ về nghĩa vụ hoàn trả tài sản không có căn cứ pháp luật.
Theo đó, khi nhận được khoản tiền do người khác chuyển nhầm vào tài khoản thì người nhận có nghĩa vụ hoàn trả toàn bộ tài sản thu được. Nếu không xác định được chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản thì cần phải giao cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Khoản 1, Điều 166 cũng quy định rõ, người chuyển tiền nhầm có quyền đòi lại tài sản. Như vậy, trường hợp người nhận tiền chuyển nhầm cố tình không hoàn trả lại tiền, vẫn rút ra và sử dụng, thì đó là hành vi trái pháp luật và sẽ bị xử lý theo quy định. Cụ thể như sau: Điều 15 (điểm đ, khoản 2) Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội "Nếu có hành vi sử dụng, mua, bán, thế chấp, cầm cố trái phép hoặc chiếm giữ tài sản của người khác sẽ bị xử phạt hành chính từ 3.000.000 - 5.000.000 đồng. Điểm b, khoản 4, Điều này cũng quy định, người chiếm giữ buộc trả lại tài sản do chiếm giữ trái phép đối với hành vi này".
Chưa hết, theo Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015 đã được sửa đổi và bổ sung năm 2017 liên quan đến tội "chiếm giữ trái phép tài sản". Nếu số tiền bị chiếm giữ trái phép nằm trong khoảng từ 10 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng, người phạm tội sẽ bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ trong tối đa 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Nếu chiếm giữ tài sản từ 200 triệu đồng trở lên thì bị phạt tù từ 1 đến 5 năm. Như vậy, nếu trường hợp sử dụng số tiền chuyển nhầm dưới 10 triệu đồng thì có thể bị xử phạt hành chính từ 3 - 5 triệu đồng. Nếu sử dụng số tiền lớn hơn 10 triệu đồng thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "chiếm giữ trái phép tài sản" theo Bộ luật Hình sự. Theo Ngân hàng Nhà nước, người chuyển khoản nhầm về cơ bản sẽ lấy lại được tiền. Trong trường hợp này, người chuyển khoản cần liên hệ ngay với ngân hàng của mình để báo cáo về giao dịch chuyển khoản nhầm. Ngân hàng sẽ tiến hành xác minh và liên hệ để hỗ trợ. Tuy nhiên, có xảy ra trường hợp không trả lại tiền chuyển nhầm, thì cùng với việc báo ngân hàng, người chuyển khoản nhầm báo Công an địa phương nơi người đó cư trú để được hỗ trợ. Trong trường hợp người nhận không trả tiền dù đã được thông báo, thì người nhận có thể bị coi là vi phạm pháp luật.
Cũng về vấn đề chuyển nhầm tiền vào tài khoản của người khác, mà cố tình chiếm hữu, sử dụng, vụ án điển hình mới đây vào tháng 3/2024, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Dương đã khởi tố bị can, bắt tạm giam đối tượng N.T.S.E (SN 1981, quê Hà Nội) về tội "chiếm giữ trái phép tài sản". Theo điều tra, vào tháng 12/2021, anh K. do không cẩn thận nên chuyển nhầm đến tài khoản của N.T.S.E số tiền 300 triệu đồng. Ngay sau đó, anh K. đã chuyển thêm các khoản nhỏ, ghi chú đến người nhận nhầm là "xin được nhận lại tiền", đồng thời liên hệ ngân hàng làm việc với E. Tuy nhiên, E. không hợp tác và không trả lại tiền nên anh K. đã trình báo đến cơ quan Công an. Hay trường hợp chị N.T.H (ngụ TP.Hà Nội) vào ngày 20/12/2022 đã thực hiện chuyển khoản hơn 170 triệu đồng qua Internet Banking nhưng bị nhầm vào số tài khoản ông Phạm Khắc Dũng (ngụ TP.Hà Nội). Ông Dũng không chịu trả lại số tiền trên cho chị N.T.H nên chị đã trình báo Công an. Đến tháng 5/2024, Cơ quan CSĐT đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt ông Phạm Khắc Dũng về hành vi "chiếm giữ trái phép tài sản".
Nghị định 52/2024/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/5/2024 quy định tài khoản ngân hàng có thể bị phong tỏa trong các trường hợp, theo thỏa thuận trước giữa chủ tài khoản thanh toán và tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc theo yêu cầu của chủ tài khoản; khi có quyết định hoặc yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; khi tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phát hiện có nhầm lẫn, sai sót khi ghi có nhầm vào tài khoản thanh toán của khách hàng hoặc thực hiện theo yêu cầu hoàn trả lại tiền của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán chuyển tiền do có nhầm lẫn, sai sót so với lệnh thanh toán của bên chuyển tiền sau khi ghi có vào tài khoản thanh toán của khách hàng. Số tiền bị phong tỏa trên tài khoản thanh toán không được vượt quá số tiền bị nhầm lẫn, sai sót. Hay khi có yêu cầu phong tỏa của một trong các chủ tài khoản thanh toán chung trừ trường hợp có thỏa thuận trước bằng văn bản giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và các chủ tài khoản thanh toán chung.