Chiến tranh Yom Kippur và chiến thắng... 'thất bại' của Israel - Kỳ 1
Mặc dù là bên chiến thắng, nhưng người Israel lại nhớ đến Chiến tranh Yom Kippur không chỉ như một 'mehdal' (thất bại), mà còn là thất bại tệ nhất. Thậm chí cụm từ 'Yom Kippur' đã trở thành một từ đồng nghĩa trong tiếng Do Thái có nghĩa là 'sai lầm'.
Kỳ 1: "NGÔI ĐỀN THỨ BA" GẶP NGUY HIỂM
Lịch sử ghi lại chiến thắng của Israel vào năm 1967 với tên gọi cuộc Chiến tranh Sáu ngày, nhưng các hoạt động then chốt mang lại chiến thắng lại diễn ra trong chỉ gần sáu giờ thay vì sáu ngày. 7h45 sáng ngày 5/6, phi đội chiến đấu cơ của Israel đã tấn công phủ đầu các sân bay của Ai Cập theo từng đợt đồng loạt: đợt đầu tiên phá hủy máy bay trên đường băng trước khi phi công kịp lao vào buồng lái; các đường băng bị cắt vụn khiến việc cất cánh không thể thực hiện được; và các đợt tiếp theo đã phá hủy những chiếc máy bay tránh được sự hủy diệt trong đợt đầu tiên.
Nước cờ mở đầu táo bạo này đã đảm bảo ưu thế trên không trước Ai Cập, kẻ thù nguy hiểm nhất của Israel, khiến chiến thắng trước toàn bộ liên minh Arab nằm trong tầm tay. Xe tăng Arab biến thành những "chú vịt non nớt" và Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) trở thành thế lực không thể ngăn cản.
Tuy nhiên, chỉ 6 năm sau, quân đội Ai Cập và Syria đã áp đảo hệ thống phòng thủ của Israel, và họ làm điều đó đúng như những gì Israel đã làm với họ vào năm 1967 – cụ thể là chỉ trong một ngày.
Vào lúc 2 giờ chiều ngày lễ Yom Kippur (lễ Đền tội) của người Do Thái, 6/10/1973, lực lượng Ai Cập và Syria tràn qua biên giới của Israel ở sa mạc Sinai và Cao nguyên Golan. Tốc độ và sức mạnh của cuộc tấn công đã áp đảo lực lượng phòng thủ tiền tuyến của Israel, làm lung lay giới lãnh đạo quân sự và dân sự của nước này. Rõ ràng là những đánh giá của Israel về sức mạnh của chính họ, tính toán của kẻ thù và hình dạng cơ bản của chiến trường hiện đại là sai lầm.
Cuộc tấn công dữ dội đã khiến một số nhà lãnh đạo Israel suy sụp tinh thần, đặc biệt trong số đó có Bộ trưởng Quốc phòng Moshe Dayan, vốn là một biểu tượng lạnh lùng với miếng vải che mắt. “Ngôi đền thứ Ba đang gặp nguy hiểm”, ông thầm thì nói với các chỉ huy cấp cao vào sáng 7/10, bày tỏ lo ngại rằng nhà nước Israel đang đứng trước nguy cơ bị hủy diệt. Trong cuộc họp giao ban với Thủ tướng Golda Meir, ông đề nghị cho nổ vũ khí hạt nhân để răn đe Ai Cập và Syria, đồng thời rút lui về giữa Bán đảo Sinai, nhường lại toàn bộ quyền kiểm soát Kênh đào Suez cho người Ai Cập.
Thủ tướng Meir từ chối lời đề nghị của ông Dayan, nhưng không phải vì bà thấy tình hình bớt đe dọa hơn. Điều nặng nề nhất trong tâm trí bà là vấn đề nguồn lực vật chất. Các tướng lĩnh Israel đã lên kế hoạch cho một cuộc chiến nhanh chóng, kéo dài từ 3-5 ngày, giống như năm 1967. Họ chưa bao giờ tưởng tượng được điều gì giống như cuộc xung đột mà họ đang gặp phải hiện nay: một cuộc xung đột tiêu hao xe bọc thép, máy bay và đạn dược trên một mặt trận quy mô công nghiệp - chưa kể đến mạng sống con người. Đến ngày thứ ba, rõ ràng là cuộc chiến có thể kéo dài hàng tuần, thậm chí hàng tháng và nó sẽ sớm liên quan đến những trận chiến xe tăng lớn nhất kể từ Thế chiến thứ hai. Làm thế nào Israel có được trang thiết bị cần thiết để theo đuổi một cuộc xung đột ở quy mô đó?
Số phận của nhà nước Do Thái - như bà Meir ngầm thừa nhận sau đó - nằm trong tay nước Mỹ, và đặc biệt là Tổng thống Richard Nixon. Trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi cán cân trên chiến trường đã nghiêng hẳn về phía Israel, bà Meir đã thẳng thắn thừa nhận với một nhóm biên tập viên báo chí về những lo lắng của bà trong những ngày đầu xung đột. Bà tiết lộ: “Có một thời điểm đặc biệt khó khăn về vấn đề thiết bị quân sự. Vì tuyệt vọng, tôi quyết định rằng tôi phải bằng cách nào đó đến được Mỹ, ẩn danh và không có bất kỳ sự công khai nào, bằng móc nối hoặc gian lận, bất kể điều gì cần thiết để có được một cuộc gặp với Tổng thống Nixon, và hỏi ông ấy: 'Điều gì sẽ trở thành của chúng ta?'”
Việc bà thừa nhận sự phụ thuộc của Israel đã gây ra nghi ngờ về khát vọng, nền tảng của phong trào Chủ nghĩa phục quốc Do Thái, mà chiến thắng năm 1967 dường như đã đáp ứng được. Cuộc Chiến tranh Sáu ngày đã mang lại cho người Israel cảm giác sai lầm là họ an toàn sau những bức tường bất khả chiến bại. Nhờ IDF đáng gờm, người Israel không còn lệ thuộc sự sinh tồn của họ vào thiện chí và sự hào phóng của người ngoại quốc - hoặc họ nghĩ vậy.
Làm thế nào mà sự tự chủ lại chuyển sang lệ thuộc nhanh đến vậy? Những người lính trên chiến trường cũng hỏi những câu hỏi tương tự. Trong hồi ký của mình, Ariel Sharon, sau này trở thành Thủ tướng Israel, khi đó là chỉ huy một sư đoàn xe tăng trong Chiến tranh Yom Kippur, mô tả sự bối rối mà ông chứng kiến giữa những người lính Israel khi họ rút lui trước hỏa lực áp đảo của Ai Cập.
"Tôi thấy điều gì đó kỳ lạ trên khuôn mặt họ - không phải sợ hãi mà là hoang mang", ông Sharon viết. “Đột nhiên điều gì đó xảy ra với họ mà trước đây chưa từng xảy ra. Đây là những người lính đã lớn lên nhờ những chiến thắng - có thể là những chiến thắng không hề dễ dàng, nhưng vẫn là những chiến thắng. Còn bây giờ họ đang ở trong trạng thái sốc. Làm sao những người Ai Cập này có thể băng qua kênh Suez ngay trước mặt chúng ta? Tại sao họ tiến lên còn chúng ta lại bị đánh bại?”
Khi những người lính Israel mang câu chuyện của họ về nhà, cả nước bắt đầu tranh luận về câu hỏi này. Làm thế nào mà các cơ quan tình báo được ca tụng của Israel lại không nhìn thấy được cuộc chiến sắp xảy ra? Đó là lỗi của ai? Đáng lẽ phải làm gì khác đi? Ngay cả những câu trả lời hay nhất cho những câu hỏi này cũng có xu hướng chỉ cung cấp một bức tranh không đầy đủ về sự thật và đôi khi chúng đóng khung cuộc tranh luận bằng những thuật ngữ sai lệch.
Rõ ràng ngay cả khi các nhà lãnh đạo Israel biết trước cuộc tấn công sắp xảy ra, họ vẫn đánh giá thấp lực lượng của đối thủ. Việc giải thích lý do tại sao lại như vậy sẽ không chỉ xác định đúng sự thật về năm 1973 mà còn tiết lộ một số sự thật quan trọng về lịch sử và bản chất của mối quan hệ Mỹ-Israel - những sự thật có tầm quan trọng lớn đối với hiện tại.