Chính sách tiền tệ chuyển từ chặt chẽ sang nới lỏng: Cấp nước ruộng hạn!
Theo ông Đậu Anh Tuấn, Phó tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI, doanh nghiệp cần vốn như trồng trọt cần nước. Việc Chính phủ chuyển hướng chính sách tiền tệ từ 'chặt chẽ, chắc chắn' sang 'linh hoạt, nới lỏng' như tạo nguồn nước cho các mảnh ruộng đang khô hạn.
Chiều 20.7, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm trực tuyến "Điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ và mục tiêu tăng trưởng trong bối cảnh mới".
Thảo luận tại tọa đàm, các chuyên gia đánh giá cao việc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đưa ra chủ trương chuyển chính sách tiền tệ từ "chặt chẽ" trước đó sang "chắc chắn" và đến nay, tiếp tục chuyển sang "linh hoạt, nới lỏng hơn".
Thay đổi chính sách để phục hồi kinh tế
TS Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng BIDV cho hay, trong 2 năm vừa qua có rất nhiều biến động và nhiều yếu tố gọi là "đa khủng hoảng" xảy ra. Quý 1-3 năm ngoái, lạm phát của thế giới tương đối cao.
“Lúc đó chính sách tiền tệ của chúng ta là "chặt chẽ". Cuối năm ngoái, về cơ bản lạm phát của chúng ta kiểm soát tốt và lạm phát toàn cầu có dấu hiệu chững lại, thì chúng ta chuyển sang trạng thái "chắc chắn" và thực hiện được đa mục tiêu. Còn thời điểm hiện nay, Chính phủ cũng như Thủ tướng quyết định chuyển sang trạng thái "linh hoạt, nới lỏng". Tôi thấy rất phù hợp”, ông Lực nêu.
Ông Lực cho rằng kinh tế 2 quý vừa qua mặc dù có tiến triển hơn nhưng vẫn còn khó khăn, chịu tác động rất lớn từ những yếu tố đặc biệt bên ngoài và những yếu tố nội tại bên trong tồn tại lâu nay và vẫn phải tiếp tục xử lý.
“Rõ ràng, bây giờ chúng ta cần thay đổi chính sách phù hợp để phục hồi và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Mặc dù vậy, chúng ta nới lỏng nhưng linh hoạt, tức là vẫn bảo đảm mục tiêu ổn định được kinh tế vĩ mô”, ông Lực nói và cho rằng cần phối hợp đồng bộ hơn với các chính sách khác, trong đó có chính sách tài khóa, giải ngân vốn đầu tư công và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.
TS Võ Trí Thành nhận định rằng các nước đều rất quan tâm tới cả 2 mục tiêu: Ổn định vĩ mô mà một chỉ số quan trọng là lạm phát. Tuyên ngôn của các ngân hàng trung ương phải rất rõ về mục tiêu ưu tiên.
“Ví dụ như đối với Mỹ và châu Âu thì kiểu gì họ cũng ấn định mục tiêu cuối cùng là lạm phát phải ở con số trước đây họ thông qua là 2%. Ngoài ra, họ vẫn dịch chuyển chính sách tiền tệ để làm sao hại ít nhất đến phục hồi kinh tế sau đại dịch và tăng trưởng”, ông Thành nêu.
Như vậy, ông Thành cho rằng bài học ở đây là phải rất rõ trong việc minh bạch điều đó, cộng với tính linh hoạt và sự khéo léo để làm sao đạt được cả 2 mục tiêu.
Bài học thứ hai, theo ông Thành là ngay cả các nước phát triển vừa qua không phải đã thực hiện một cách trọn vẹn, thậm chí họ cũng có những sai lầm.
“Chúng ta hay nói về chính sách tiền tệ là câu chuyện ổn định vĩ mô, lạm phát, hoặc là tỷ giá một bên, và một bên là tăng trưởng, phục hồi kinh tế, sản xuất kinh doanh. Nhưng chúng ta đừng quên rằng chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định, độ an toàn, sự lành mạnh của thị trường tài chính ngân hàng”, ông Thành nói.
Theo ông Thành, bài học này không mới nhưng từ cuộc khủng hoảng châu Á đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 và đến hiện nay cho thấy rất rõ câu chuyện sự sụp đổ của một loạt ngân hàng, khởi đầu là ngân hàng SVB (Silicon Valley Bank) của Mỹ, kéo theo một loạt ngân hàng khác của Mỹ cũng như một trong top đầu ngân hàng là Silvergate Bank sụp đổ.
“Chúng ta đừng quên, nếu nhìn theo nghĩa rộng của kinh tế vĩ mô, là sự an toàn, lành mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng. Việt Nam vào năm 2022 phải rất vất vả chống đỡ sự rung lắc của thị trường tài chính, và đặc biệt là chấn động của một số ngân hàng ở Việt Nam. Chúng ta phải lưu ý bài học này”, ông Thành chia sẻ.
Ruộng khô được bơm nước
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cũng đồng tình rằng việc chuyển hướng chính sách tiền tệ từ "chặt chẽ, chắc chắn" đến nay sang hướng "linh hoạt, nới lỏng" là rất đúng với nhu cầu hiện nay.
“Tôi hình dung việc đúng này như là các mảnh ruộng đang khô hạn và Chính phủ đang cố gắng tạo nguồn nước để tưới cho các mảnh ruộng này. Hoạt động kinh doanh thì cần vốn, vốn với doanh nghiệp như trồng trọt cần nước vậy. Khi bị thiếu nước thì rõ ràng nông nghiệp không thể phát triển, giống như doanh nghiệp thiếu vốn thì chắc chắn gặp khó khăn”, ông Tuấn nói.
Ông Tuấn chia sẻ, năm 2022, riêng dòng vốn đối với doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, trước hết là dòng vốn từ trái phiếu gần như đóng băng, trong khi những khó khăn dồn dập khác từ thị trường thế giới ập đến (đơn hàng giảm, nhiều hoạt động kinh doanh khó khăn, doanh nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn, vay vốn ngân hàng thì lãi suất rất cao...).
“Trong giai đoạn vừa rồi, lãi suất có giai đoạn mười mấy phần trăm, mà đối với hoạt động kinh doanh bình thường thì mức lãi suất này đã khó chứ chưa nói đến tích lũy và phát triển. Chính vì thế, giải pháp hiện tại ưu tiên tập trung vào chính sách tiền tệ theo hướng kéo mặt bằng lãi suất xuống và tăng cung tiền để làm sao tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vay vốn theo chúng tôi là chính sách rất đúng và rất cần thiết”, ông Tuấn nêu.
Tuy nhiên, theo ông Tuấn, hiện tại nhiều doanh nghiệp cho biết vay được vốn rẻ vẫn đang rất khó khăn, cho nên làm sao những chính sách tiền tệ như thế này phải đi nhanh được vào thực tiễn và làm sao doanh nghiệp có thể vay vốn được với lãi suất hợp lí để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh.
“Những con số kinh tế trong 6 tháng đầu năm cho thấy bức tranh về kinh doanh, về doanh nghiệp rất đáng lo ngại. Nếu doanh nghiệp không duy trì được hoạt động, không tăng trưởng được thì chắc chắn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế - một mục tiêu quan trọng”, ông Tuấn nói.
Ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng Nghị quyết phiên họp thường kỳ của Chính phủ từ "nới lỏng", "linh hoạt" được sử dụng thay cho "chặt chẽ", "chắc chắn"; đồng thời phấn đấu giảm ít nhất khoảng 1,5-2% lãi suất đã có. Chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cũng đã được xác định đâu đó 11%.
“Chúng ta cũng nhìn thấy ở đây nữa là dư địa, ta gọi là tính lâu dài ổn định của chính sách, đã bắt đầu xuất hiện. Chúng ta biết rằng một trong các điểm thành công của Nghị quyết 128 về ứng phó với dịch đó là tính dài hạn và tiên đoán được. Lần này, những thông điệp đưa ra vừa có tính rõ ràng vừa có thời hạn, để doanh nghiệp có thể tiên liệu trước được, chuẩn bị các kịch bản, kế hoạch sản xuất kinh doanh”, ông Hiếu nói.