Chính thức phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch điện VIII

Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn vừa ký quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII).

 Công trình đường dây 500kV Monsoon - Thạnh Mỹ nhập khẩu điện từ Lào. Nguồn: VEA.

Công trình đường dây 500kV Monsoon - Thạnh Mỹ nhập khẩu điện từ Lào. Nguồn: VEA.

Phạm vi, ranh giới quy hoạch: Quy hoạch phát triển nguồn điện và lưới điện truyền tải ở cấp điện áp từ 220 kV trở lên, công nghiệp và dịch vụ về năng lượng tái tạo, năng lượng mới trên lãnh thổ Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, bao gồm cả các công trình liên kết lưới điện với các quốc gia láng giềng.

Mục tiêu cụ thể là cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 10,0%/năm trong giai đoạn 2026 - 2030, khoảng 7,5%/năm trong giai đoạn 2031 - 2050.

Do đó, sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu vào 2030 dự kiến đạt 560,4- 24,6 tỷ kWh và lên đến 1.360,1-1.511,1 tỷ kWh vào 2050.

Mục tiêu là đến 2030 tăng 80-100% so với sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) đạt được năm 2024, ở mức 308,73 tỷ kWh.

Cơ cấu nguồn điện

Trọng tâm lớn của Quy hoạch điều chỉnh là thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, với mục tiêu chiếm tỷ lệ 28-36% vào năm 2030, và 74-75% năm 2050 (không bao gồm thủy điện).

Điện mặt trời dự kiến đạt tổng công suất 46.459-73.416 MW cuối thập niên này. Chính phủ cũng đặt mục tiêu đến năm 2030, 50% các tòa nhà công sở và 50% hộ dân sử dụng điện mặt trời mái nhà theo hình thức tự sản, tự tiêu.

Trong khi đó, tổng công suất điện gió trên bờ và gần bờ dự kiến đạt 26.066-38.029 MW vào năm 2030.

Với thủy điện, đến năm 2030, tổng công suất (bao gồm thủy điện nhỏ) đạt 33.294 - 34.667 MW, hướng tới 40.624 MW năm 2050. Nguồn năng lượng này sẽ tiếp tục được khai thác tối đa trên cơ sở bảo vệ môi trường, rừng và nguồn nước.

Cùng với đó, điện sinh khối, điện rác và các nguồn năng lượng mới khác như địa nhiệt cũng được khuyến khích phát triển để xử lý môi trường và tận dụng phụ phẩm nông nghiệp. Năm 2030, tổng công suất nhóm nguồn này vào khoảng 3.009-4.881 MW và tăng lên hơn 9.000 MW đến năm 2050.

Đặc biệt, giai đoạn 2030-2035, sẽ đưa vào vận hành hai nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 với quy mô 4.000 - 6.400 MW. Đến năm 2050, hệ thống có thể cần bổ sung 8.000 MW điện hạt nhân để đảm bảo ổn định.

Quy hoạch không bổ sung dự án nhiệt điện than mới, chỉ tiếp tục các dự án đang triển khai và chuyển đổi nhiên liệu sang sinh khối hoặc amoniac với các nhà máy đã vận hành trên 20 năm. Nhà máy quá 40 năm sẽ ngừng hoạt động nếu không thể chuyển đổi.

Với điện khí, Quy hoạch ưu tiên sử dụng khí trong nước và bổ sung LNG nhập khẩu nếu cần. Về lâu dài, từng bước chuyển đổi sang hydrogen khi công nghệ chín muồi. Hệ thống lưu trữ điện cũng sẽ được đầu tư mạnh, mục tiêu đạt công suất pin 10.000 - 16.300 MW vào năm 2030 và gần 96.120 MW vào năm 2050.

Quy hoạch điện VIII ước tính tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải khoảng 136,3 tỷ USD giai đoạn 2026 - 2030 và cần thêm 130 tỷ USD những năm 2031 - 2035. Từ 2036 đến 2050, Việt Nam tiếp tục cần đầu tư thêm 569,1 tỷ USD cho hoạt động này.

Đẩy mạnh nhập khẩu điện từ các nước Đông Nam Á và Tiểu vùng sông Mekong

Một điểm đáng chú ý khác trong quy hoạch là việc đẩy mạnh thực hiện kết nối, trao đổi điện năng có hiệu quả với các nước trong khu vực, bảo đảm lợi ích của các bên, tăng cường an toàn hệ thống điện; đẩy mạnh nhập khẩu điện từ các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Tiểu vùng sông Mekong (GMS) có tiềm năng về thủy điện; quan tâm đầu tư, khai thác các nguồn điện tại nước ngoài để cung ứng điện về Việt Nam.

Cụ thể, năm 2030, nhập khẩu khoảng 9.360 - 12.100 MW từ Lào theo Hiệp định giữa hai Chính phủ và tận dụng khả năng nhập khẩu phù hợp với điều kiện đấu nối từ Trung Quốc với quy mô hợp lý. Định hướng năm 2050, nhập khẩu khoảng 14.688 MW. Nếu điều kiện thuận lợi, giá thành hợp lý, có thể tăng thêm quy mô tối đa hoặc đẩy sớm thời gian nhập khẩu điện từ Lào về khu vực miền Bắc.

Về xuất khẩu, phát triển các nguồn điện từ năng lượng tái tạo phục vụ xuất khẩu. Đến năm 2030, tăng quy mô xuất khẩu điện sang Campuchia lên khoảng 400 MW. Dự kiến đến năm 2035, quy mô công suất xuất khẩu điện sang Singapore, Malaysia và các đối tác khác trong khu vực đạt khoảng 5.000 - 10.000 MW và duy trì với quy mô 10.000 MW đến năm 2050, có thể cao hơn tùy theo nhu cầu của bên nhập khẩu trên cơ sở có hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo an ninh năng lượng trong nước và an ninh quốc phòng.

Cơ cấu các loại hình nguồn điện đến năm 2030

Bộ Công Thương ban hành khung giá phát điện cho loạt loại hình nguồn điện

Trong một diễn biến liên quan, ngày 14/4 vừa qua, Bộ Công Thương đã ban hành loạt quyết định phê duyệt khung giá phát điện năm 2025 cho các loại hình nguồn điện như: điện sinh khối, điện nhập khẩu từ Lào, điện than.

Cụ thể, khung giá phát điện cho nhà máy điện sinh khối năm 2025 là 0-2.091,74 đồng/kWh (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng). Trong đó, mức giá tối đa là 2.091,74 đồng/kWh.

Đối với điện nhập khẩu từ Lào về Việt Nam, mức giá trần (giá tối đa) áp dụng đối với nhà máy điện hoặc một phần nhà máy điện vận hành thương mại từ ngày 31/12/2025 đến hết ngày 31/12/2030 như sau: nhà máy thủy điện 6,95 USCent/kWh; nhà máy nhiệt điện than 7,02 USCent/kWh; nhà máy điện gió 6,95 USCent/kWh.

Khung giá phát điện cho nhà máy nhiệt điện than năm 2025 là 0 - 1.705,68 đồng/kWh (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng). Trong đó, mức giá tối đa là 1.705,68 đồng/kWh.

Các thông số sử dụng tính toán mức giá tối đa của khung giá phát điện áp dụng cho nhà máy nhiệt điện than năm 2025 như sau: công suất tinh 1.309,4 MW; suất tiêu hao nhiệt tinh ở mức tải 85%: 2.167,81 kcal/kWh; nhiệt trị than (HHV): 4.788 kcal/kg; giá than: 1.974.952 đồng/tấn; tỷ giá VNĐ/USD là 25.670.

Thu Thảo

Theo Bộ Công Thương

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/chinh-thuc-phe-duyet-dieu-chinh-quy-hoach-dien-viii-40506.html