Chu Đậu - Tự hào gốm cổ người Việt

Chu Đậu là một trong những cái nôi của nghề gốm Việt Nam. Thôn Chu Đậu thuộc xã Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Chu là thuyền, Đậu là bến. Chu Đậu là thuyền đậu bên bến sông. Dòng gốm bác học tại Chu Đậu đạt đến đỉnh cao về kỹ thuật và nghệ thuật, nổi tiếng bậc nhất trên thế giới thời bấy giờ.

Đầu năm 1994, tại vùng biển Cù Lao Chàm tỉnh Quảng Nam, ngư dân Duy Xuyên và Hội An đã phát hiện và lặn vớt được rất nhiều hiện vật gốm. Các nhà khảo cổ học Hội An, qua giám định khoa học, đã bất ngờ thấy rằng toàn bộ hiện vật gốm này đều có nguồn gốc từ làng gốm Chu Đậu, được sản xuất vào khoảng thế kỷ XIV - XVI. Hơn 340 nghìn hiện vật gốm, trong đó khoảng trên 250 nghìn hiện vật còn lành, chứng tỏ từ xa xưa, gốm Chu Đậu đã được xuất cảng rộng rãi với số lượng lớn bằng con đường hàng hải. Như vậy Chu Đậu xưa là nơi hoạt động, sản xuất đồ gốm dân dụng và mỹ thuật phồn thình của cư dân Việt.

Bảo tàng Lịch sử và Nghệ thuật Hoàng gia Bỉ có đến 3.000 cổ vật Việt Nam, gồm: trống đồng Đông Sơn, đồ gốm thời Giao Chỉ, đồ gốm thời Lý - Trần - Lê - Mạc, đồ sứ ký kiểu của triều Nguyễn và tượng điêu khắc Champa. Trong đó, gốm Chu Đậu nổi tiếng nhất ở bảo tàng này là sưu tập chân đèn thời Mạc với hơn 20 chiếc chân đèn quý hiếm.

Bảo tàng Hoàng gia Mariemont có khoảng 150 cổ vật Việt Nam, mua từ sưu tập của Clément Huet (1952) và từ các cuộc đấu giá cổ vật thuộc các sưu tập: Hồ Đình, Bảo Đại, Bảo Long... do Binoche-Ventes và Loudemer-Ventes tổ chức những năm 1990, trong đó có rất nhiều kendi, đĩa lớn và bình tì bà thuộc dòng gốm Chu Đậu, đặc biệt là sưu tập các con giống trong gốm Chu Đậu có niên đại vào thế kỷ 16.

Gốm Chu Đậu - Kỷ lục thế giới. Ảnh: Gia Minh

Gốm Chu Đậu - Kỷ lục thế giới. Ảnh: Gia Minh

Bảo tàng Nghệ thuật Tokugawa ở Nagoya, Nhật Bản là nơi trưng bày những bộ sưu tập bát uống trà chân cao lừng danh, men tam thái, xuất xứ từ Chu Đậu. Trong số đó đáng chú ý là chiếc bát thuộc sở hữu của tướng quân Tokugawa Ieyasu từ năm 1616, có hoa văn vẽ bằng men đỏ và men lục, thành ngoài vẽ hoa văn hình cánh sen và hoa cúc xen kẽ một nhánh cây bạch quả, đáy phủ men nâu. Ngoài ra còn có chiếc bát trà gốm chân cao là bảo vật của gia tộc dòng thứ Owari-Tokugawa. Hình dáng, màu sắc và hoa văn của chiếc bát trà gốm Chu Đậu này đã được lãnh chúa Owari-Tokugawa dùng làm mẫu để chế tác bát trà trong lò gốm của họ. Philippe Truong căn cứ vào lối trang trí độc đáo và riêng biệt của hai chiếc bát trà này, cả về kỹ thuật thể hiện lẫn kiểu thức hoa văn, đã nhận định đây là những chiếc bát trà được đặt làm riêng cho tướng quân và gia tộc Tokugawa. Vì thế mà hai chiếc bát trà gốm Chu Đậu này đã được Chính phủ Nhật Bản đưa vào danh mục tài sản văn hóa quan trọng (Yuzo bukazai) của Nhật Bản.

Có thể thấy rằng sự hiện diện của các bát trà gốm Chu Đậu chân cao này đã tạo nên những ảnh hưởng đối với kiểu dáng và trang trí cho những món đồ gốm sản xuất tại Nhật Bản trong thế kỷ 17. Sự ảnh hưởng này còn kéo dài đến thế kỷ 19 với những hiện vật gốm Nhật Bản có niên đại thế kỷ 19 được tìm thấy ở Nhật Bản, Bảo tàng Mỹ thuật Boston và Freer Gallery of Arts ở Washington D.C. (Mỹ).

Gia bảo của dòng họ quan khâm sai vùng Nagasaki (Nhật Bản) là Ozawa Shiroemon Mitsunaka có 8 món gốm Chu Đậu, một món men trắng đời Lý. 4 trong số 9 món này hiện thuộc Bảo tàng Quốc gia Kyoto tại Nhật (Kyoto National Museum).

Bảo tàng Guimet (tên tiếng Pháp là Museé National des Arts Asiatiques Guimet -Bảo tàng Quốc gia Nghệ thuật châu Á Guimet) nằm ở quận 14 thành phố Paris là một trong những bảo tàng nghệ thuật châu Á lớn nhất nằm ngoài châu Á. Đặc biệt, tại bảo tàng này có trưng bày bộ sưu tập gốm Chu Đậu vang danh của nước ta.

Sau chuyến đi tới Ai Cập, Hy Lạp và vòng quanh thế giới vào năm 1876 qua Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ, Émile Guimet đã tập hợp được một bộ sưu tập lớn và mang về Lyon và thành lập bảo tàng Guimet. Năm 1889, Émile Guimet khánh thành bảo tàng ở Paris. Từ năm 1927, bảo tàng Guimet bắt đầu nhận được các hiện vật từ Bảo tàng Đông Dương và nhiều nguồn đa dạng khác. Bộ sưu tập của Bảo tàng Guimet đa dạng về thời kỳ và đầy đủ về nghệ thuật của châu Á với khoảng 50.000 hiện vật.

Một số hiện vật gốm Chu Đậu tại đây có chú giải xuất xứ từ miền Bắc Việt Nam vào thời Lê (thế kỷ XV) hoặc Lê - Mạc (thế kỷ XV-XVII), tức thuộc thời kỳ phát triển cực thịnh của gốm Chu Đậu. Đáy món đồ được chú giải có lớp son nâu, tức đáy tráng son màu sô-cô-la (base chocolateé).

Chiếc bình gốm hoa lam cao 54 cm tại Viện Bảo tàng Topkapi Saray (Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ) đã từng được trả tới 1 triệu USD trong một phiên đấu giá. Trên bình có ghi dòng chữ Hán: "Thái Hòa bát niên Nam Sách châu, tượng nhân Bùi thị Hý bút", tạm dịch là "Năm Thái Hòa thứ tám (1450) thợ gốm họ Bùi, người châu Nam Sách vẽ".

Giá trị của gốm Chu Đậu, sau khi được tìm thấy ở Cù Lao Chàm, đã làm sửng sốt trong giới học giả và mọi người. Tờ Việt Mercury số ra tháng 6/2000 đã đăng lời bà Dessa Goddard - Giám đốc ngành nghệ thuật Á Châu của nhà bán đấu giá Butterfields tại San Francisco: “Phát hiện này đang trả lại cho Việt Nam một chương của di sản nghệ thuật mà người ta từng nghĩ là đã hoàn toàn biến mất”.

Tháng 10-2000, nhà bán đấu giá Butterfields có tổ chức ở San Francisco và Los Angeles cuộc bán đấu giá đồ gốm Chu Đậu vớt được từ một tầu chìm ngoài khơi Cù Lao Chàm, Hội An (họ gọi là “Hoi An Hoard”, kho tàng Hội An). Trong 3 ngày 11, 12, 13 tháng 10-2000, tổng số tiền bán được vào khoảng 3 triệu USD.

Chiếc bình tỳ bà vẽ hoa lam có giá 521.000 USD được người Anh mua trong một cuộc đấu giá và được người Mỹ in trên tem, rồi chiếc đầu Rồng gốm đặt tại trụ sở Liên Hợp Quốc đều là sản phẩm gốm của Chu Ðậu được trục vớt từ con tàu đắm tại Cù Lao Chàm.

Theo cuốn Vietnamese Ceramics, a separate tradition (Gốm sứ Việt Nam, một truyền thống riêng biệt) – NXB. Art Media Resource xuất bản năm 1997, John Stevenson và John Guy chủ biên, cho biết gốm Chu Đậu được lưu giữ trong các bảo tàng khắp nơi trên thế giới, như: Metropolitan Museum of Art, New York; Museum of Fine Arts, Boston; Museum het Princesshof, Leewarden; Society of Acient Southeast Asian Ceramics, Nhật Bản; Kyoto National Museum, Nhật Bản; Machida Municipal Museum, Nhật Bản; Birmingham Art Museum, Alabama; Museum of East Asian, Bath (Australia); Asian Art Museum of San Francisco; British Museum, London; Art Gallery of South Australia, Adelaide; Denver Museum of Art, Denver, Colorado; Seatle Art Museum, Seatle, Washington…

Năm 2017, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã trao bằng xác lập Kỷ lục độc bản: “Men tro trấu - Sản phẩm gốm Chu Đậu, dòng men thiên nhiên cổ truyền độc đáo của gốm Việt Nam”. Đây là sản phẩm của Công ty Cổ phần Gốm Chu Đậu.

Chiếc ang gốm Chu Đậu, thế kỷ XV, hiện vật của Bảo tàng Nghệ thuật Dresden, Đức. Ảnh: Trần Đức Anh Sơn

Chiếc ang gốm Chu Đậu, thế kỷ XV, hiện vật của Bảo tàng Nghệ thuật Dresden, Đức. Ảnh: Trần Đức Anh Sơn

Ngày 9-9-2019, Gốm Chu Đậu được tổ chức Guiness xác nhận đĩa 1.000 chữ Long viết bằng thư pháp đạt kỷ lục thế giới. Đĩa được viết bằng thư pháp bởi nhà thư pháp nổi tiếng Lê Thiên Lý, người đã sáng tạo ra hai lối viết thư pháp “Nhân diện thư” và “Vật điểu thư”. Cả nghìn chữ “Long” được biến hóa khôn lường theo dáng rồng chầu, rồng ẩn, rồng múa, rồng bay và bản đồ Việt Nam có đầy đủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được phủ dưới lớp men tro trấu đặc trưng của gốm Chu Đậu đã gây chú ý của các nhà chuyên môn.

Tổ nghề gốm Chu Đậu là ai?

Ở Chu Ðậu, những dòng họ tài danh nhất về đồ gốm là họ Ðặng, họ Vương. họ Bùi, họ Ðỗ, với những kỳ tài như vợ chồng Ðặng Huyền Thông - Nguyễn Thị Ðỉnh, Ðặng Hữu, Ðặng Tính Không.

Ông Tăng Bá Hoành, Chủ tịch Hội Sử học tỉnh Hải Dương, nguyên Giám đốc Bảo tàng tỉnh, trong Gốm Chu Ðậu, có trích gia phả nhà Họ Vương câu: “Nam Sách phủ, Thanh Lâm huyện, Ðặng Xá xã, dĩ đào bát vi nghiệp, hậu nhất chi di cư Gia Lâm huyện, Bát Tràng xã. Cụ Vương Quốc Doanh hưng công dĩ đào bát vi nghiệp” (họ Vương ở xã Ðào Xá huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách làm nghề đồ gốm; Sau một chi di cư về xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, và cụ Vương Quốc Doanh làm hưng thịnh nghề đồ gốm ở đấy).

Ông Đặng Huyền Thông

Tên thật Đặng Mậu Nghiệp, tự Huyền Thông, quê ở thôn Cổ Phường, xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, sống vào thế kỷ 16. Đặng Huyền Thông đã để lại những tác phẩm gốm quý, gồm những chân đèn với các thớt vẽ men màu lam, rồng đắp nổi, trang trí rậm, được coi là điển hình cho quan điểm thẩm mỹ thời mạc, đậm chất dân gian; cùng những bát hương lớn cùng một thể loại, hiện vẫn còn lưu truyền tại nhiều đền, chùa Bắc Bộ. Toàn bộ các tác phẩm của ông đều được phủ một loại men trong, dày và có màu xanh sẫm, đôi khi lẫn màu ghi xám hay ngả vàng. Sử dụng loại men màu lam xám, ông đã kết hợp với các chi tiết được chạm thủng chạm nổi, dán ghép kết hợp với khắc chìm để thể hiện nhiều đề tài phong phú khác nhau.

Ông là một trong số không nhiều những nghệ nhân gốm ký tên vào tác phẩm của mình, không những thế, trong một số hiện vật, ông còn ghi cả ngày và địa điểm sản xuất, người đặt hàng và nơi sử dụng. Một số tác phẩm do ông cùng vợ là Nguyễn Thị Đỉnh sản xuất và ký tên.

Ông là nghệ nhân ghi tên trên nhiều tác phẩm nhất trong số các tác phẩm gốm thời Mạc còn lại đến ngày nay. Trong 12 hiện vật gốm ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và 7 hiện vật ở Bảo tàngHải Dương , ghi rõ sản xuất vào thời Mạc hậu Hợp (1578 - 1891) với các niên hiệu Diên Thành, Đoan Thái, Hưng Trị, đã có 10 tác phẩm ghi tên Đặng Huyền Thông, gồm 3 bát hương và 7 chân đèn. Bên cạnh các bảo tàng, tác phẩm của ông còn được có mặt trong nhiều bộ sưu tập tư nhân trên thế giới. Tại Bảo tang Topkapi Saray ở Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) có lưu giữ một lư hương gốm xanh xám được ông làm vào năm Hưng Trị thứ 2 (1589), được xem là một trong hai cổ vật gốm quý giá nhất của Chu Đậu.

Những đồ gốm của Đặng Huyền Thông đã đánh dấu bước phát triển mới của gốm men thế kỷ 16. Ông được người dân Chu Đậu tôn vinh làm Ông tổ nghề gốm Chu Đậu. Đền thờ Đặng Huyền Thông xây dựng tại thôn Hùng Thắng đã được Nhà nước Việt Nam xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Công đức của Đặng Huyền Thông được ghi lại trong nhiều văn bia (khắc trên bia đá) còn tồn tại đến ngày nay. Chủ yếu các bia đá này nằm ở thôn Hùng Thắng trong đó ghi lại một số việc làm quan trọng của Đặng Huyền Thông như phát triển sản xuất, xây dựng chùa chiền (chùa An Ninh Tự) và đặc biệt là việc cử nghệ nhân Vương Quốc Doanh đem thợ đến Bát Tràng, góp một phần làm cho gốm sứ Bát Tràng hưng thịnh như ngày nay.

Bà Bùi Thị Hý

Theo nghiên cứu của ông Tăng Bá Hoành, thì bà Bùi Thị Hý (1420-1499) - người vẽ bình gốm hoa lam được trưng bày tại Viện Bảo tàng Topkapi Saray (Istanbul), là cháu ngoại của cụ Bùi Quốc Hưng - khai quốc công thần đời Lê cùng thời với danh nhân Nguyễn Trãi. Bà Hý có biệt tài viết chữ và vẽ đồ gốm rất đẹp, từng giả nam đi thi đại khoa đến tam trường thì bị phát hiện. Về sau, bà lấy đại chủ Đặng Sỹ, là chủ lò gốm Chu Trang (tức là gốm Chu Đậu bây giờ) và giàu nổi tiếng đương thời. Lò này chuyên làm đồ xuất cảng. Tại đây với tài năng sẵn có, bà Bùi Thị Hý đã vẽ hoa văn cho rất nhiều món trong đó có bình Topkapi Saray. Ông Đặng Sỹ, trong một lần đi giao hàng trên biển đã bị tai nạn bỏ mạng, bà Hý tái giá với ông Đặng Phúc cũng là một đại gia ở Chu Đậu. Sau khi tái giá, bà cùng với chồng chỉ huy các thuyền xuất khẩu gốm Chu Đậu sang các nước phương Tây. Cuối đời, bà về công đức tiền của làm đình, chùa Viên Quang.

Còn nhớ khi con tàu gỗ chở đồ gốm đi biển bị đắm vào khoảng giữa thế kỷ 15 ở Cù Lao Chàm được trục vớt, thu về cho Việt Nam hơn 240 nghìn cổ vật quý giá; người ta phát hiện điều kỳ lạ là bị ngâm dưới biển ở độ sâu 70m nhưng một số thứ mà con thuyền mang theo vẫn còn dáng vẻ dễ nhận diện: đó là nhãn Hải Hưng còn tươi mà thủy thủ trong đoàn chưa kịp ăn thì tàu bị gặp nạn. Những quả nhãn gốc từ Hải Hưng đã minh chứng quê hương của chủ nhân con tàu bị đắm này là bà Bùi Thị Hý. Ðiều khó tin là, dựa vào chứng cứ, chứng tỏ bà vừa là nhà sản xuất gốm, vừa là người tổ chức thương thuyền buôn vượt biển. Di vật quý vượt biển của bà là tấm la bàn bằng đá cẩm thạch kích thước 17x17x7cm vừa được tìm thấy trên mảnh đất ngay nơi cụ thân sinh bà từng sinh sống. Trên la bàn có chữ Châm bàn Chu Hải Khứ, Bùi Thị Hý, nghĩa bàn kim chỉ đường cho thuyền biển của Bùi Thị Hý. La bàn này về nguyên lý tương tự như la bàn đi biển thời Christopher Columbus (1451-1506).

Theo những nhà nghiên cứu mới đây, bà Bùi Thị Hý ngoài công việc làm gốm như vuốt bình, vuốt lọ và vẽ giỏi, bà còn có tài nặn tượng, nặn rồng, nặn nghê... bà đã để lại một con rồng đất đặt trên ngã ba sông Ðịnh Ðào quê hương mình. Nhân dân ở Gia Lộc (Hải Dương) vẫn còn giữ được một số di vật tại Gò Hình Nhân thuộc gia tộc của bà có liên quan đến con rồng này. Thật bất ngờ là chiếc đầu rồng thể hiện nét văn hóa Việt được trưng bày tại trụ sở Liên Hợp Quốc là gốm Chu Ðậu cũng gần giống với dáng vẻ đầu rồng ở quê bà. Bà Bùi Thí Hý đã được vinh danh là Bà tổ Làng gốm Chu Đậu. Ở đình làng Chu Đậu bây giờ vẫn còn bia ghi công vợ chồng ông Đặng Sĩ và bà Bùi Thị Hý.

BÌNH NGUYÊN

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/van-hoa-giao-duc/doi-song-van-hoa/chu-dau-tu-hao-gom-co-nguoi-viet-657969