Chùm thơ Nguyễn Đức Sơn

Nguyễn Đức Sơn là một tác giả thơ Việt Nam được yêu thích bởi sự tôn vinh và ngợi ca vẻ đẹp đẽ của quê hương Việt Nam trong các tác phẩm của mình.

NGUYỄN ĐỨC SƠN

Phả nắng Việt Bắc

Uốn thẳm rừng sâu

Trào tuôn thác ghềnh

Như đôi mắt sáng bản làng

sương trắng miền tim tím hoa mua

Cái nhớ bờ lau

Ngọt ngào đôi bờ triền phơi hun hút

Nhịp sóng đưa chuyến đò quen

Ngụp lội suối khe gian khó

Mở trào đất mỏ

Nhân dân trữ hũ gạo nuôi quân

Sắn ngô dốc sàn, ống bương sớm tối

Mẹ đùm bới, chất quẫy tấu đợi con về

Trường kỳ chín năm kháng chiến

Phả nắng, đổ mưa

con đường hành quân heo hút

Cời lửa đỏ bếp đun nấu nồi cơm thơm

khói lam quyện thâm u rừng mở sáng

Ánh nước nối ngày đêm gầm reo

Bộ đội đánh giặc báo công về

Bừng ấm lòng hậu cứ

Rừng tiếp tế

Chảy xiết nguồn, đầy đặn tình mẹ chảy nguồn

Quân reo, áo trấn thủ mẹ trao

Dành chiếc khăn lót ấm cho con

Gói cơm độn ngô, độn sắn

Con đi chiến trường…

Đèo heo đá cheo leo

Con vượt đỉnh ngàn, nhớ về dáng mẹ

Mỏm đá chờ, đun reo bếp lửa vời vợi đại ngàn

Nhớ ngày về bản nhỏ

áo rách mẹ vá

Nhà sàn đơn sơ, chuồng trâu, nghé ọ...

Mai này, đường chỉ thêu ngời chói sắc áo chàm

Nhớ người mẹ Việt Bắc- Chiêm Hóa ( * )

Dòng suối xanh trong thương bóng mẹ hiền.

___________

( * ) Chiêm Hóa, huyện miền núi, thuộc tỉnh Tuyên Quang, còn gọi Thủ Đô Gió Ngàn thời kỳ Kháng chiến chống Thực Dân Pháp.

Nguyễn Đức Sơn

Nhớ chái bếp

Trạm thương binh về đây

Cánh rừng rậm che phủ

Tiếng bom gầm xa bên kia trọng điểm

Lọt qua đêm pháo sáng

Lọt ác liệt, về nơi con né gọn tán rừng

Có mái tranh choãi chái bếp của mẹ

Đêm, những đoàn xe lao về phía trước…

Chái bếp thâm u

Lặng yên chảy trong veo dài con suối uốn qua

Dãi dầu mưa nắng, che mắt lá rừng

Mảnh vườn đơn sơ hơi ấm tình mẹ

Kháng chiến trường kỳ

Lau sậy phơi trắng dốc triền

Bất chấp muỗi, vắt, dội mưa nguồn, sốt rét

Có mẹ luồn tán rừng bao la

Vòng tay để đón các con về

Ấm nóng đun nấu

Cùng đồng đội đỡ đần thương binh

Ngày đêm, mẹ giữ than củi

Sức bền tươi ngọn lửa dựng nên

Quả cảm dưới bàn tay rắn rỏi

Dốc sức bừng cháy

Người mẹ ròng rã chẳng quản

dẫu còn thiếu bữa sắn, khoai

Tình mẹ khôn nguôi

Ăm ắp là đây niềm hy vọng

Trái tim mẹ vẫy đập vượt con đường gian nan

Ao ước ngày hòa bình

Khuya sớm mẹ mong

Chân cứng, đá mềm

Trường Sơn- Đất Nước sừng sững

Lời thề xẻ dọc…

Nhớ da diết miền A Lưới ( * )

Ngọn lửa chái bếp mẹ dành cho con.

____________________

( * ) A Lưới huyện miền núi thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, trước đây dọc dãy Trường Sơn trong thời kỳ Kháng chiến Chống Mỹ Cứu nước là căn cứ cách mạng.

Con nước đầm phá

Năm tháng đắp bồi

sương phủ nắng lên

Mặn lợ bọt bèo dạt trôi

Nổi nênh mênh mang

Rộng dài mái chèo vượt sóng

Gồi gội hình hài chao chao nón nghiêng

Sức rộn quảy tươi, vươn ngày đi tới

Đêm sâu ngụp lội, người mẹ Phá Tam Giang (*)

Chẳng quản nhọc nhằn

Núi vờn theo gió, trăng vàng buông câu

Cúi gập lao xao, áo thô giăng lưới

Thuyền bện bóng chống chèo đầy cuộc

Mẹ là con nước của triệu con sóng

Con nước đánh cược rủi may

Con nước vạm vỡ ăm ắp

Con nước trông về cuộc đời dâng tràn

Trông xa, thấu gần buổi chợ nụ cười

Con nước quyến rũ đắp bồi xóm làng

Con nước xôn xao dạt dào chạm vỗ

Từng bầy, từng vỉa tôm, cá sinh sôi

Con nước đẩy đưa lấp lánh nò sáo

Cho nhau, thương nhau bếp lửa xứ sở

Nhớ về ngước đỉnh mây ngàn

Đầm phá

Lồng lộng tình mẹ thắm biển cả dấu yêu.

( * ) Phá Tam Giang thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.

Dài rộng bóng sông

Phơi triền bờ lau

Theo sông vơi đầy tuôn thao thiết đỉnh ngàn

Khôn nguôi bến bờ năm tháng

Xuôi ngược sông dâng bịn rịn

Áo dài em mang vô ngần trong trẻo

Sông, áo, thuyền trao ăm ắp

Bên trời lộng gió…

Sông chở đời người

Thành quách soi bóng

Làn nước soi bóng cánh rừng và bãi bờ

Quầng mây lang thang cánh cò vô định

Vì sông, vì em bận bịu nhịp chèo

Kịp chuyến đẩy đưa cho vượt vươn con nước

Dòng trôi đến thấu dòng đời cuồn cuộn

Bãng lãng rều rong vuốt xanh ký ức

Tri kỷ ngọt ngào chao gợn mặt sóng

Sông ơi !

Về đây nghe hát vang lừng Nhạc Trịnh

Với hiền hòa ngàn năm cất dấu vô vàn

Đáy sông lấp lánh thiền đôi mắt thuyền

Ngước ngời dáng vẻ

Thiên nhiên ban tặng

Khôn nguôi dìu dặt câu dân ca

Lồng lộng cánh chim

Mây trời xanh thắm

Dài rộng bóng sông

Nhớ người mẹ quê hương

Hơi thở Hương Giang- miền Trung lời thề

Chốn này đắp bồi hùng anh sông ơi !

Con sông xanh, vàng, mơ, tím lượn mênh mang.

Tiếng hát từ Hẻm Tu Sản

Một dòng sông xanh màu ngọc bích

Một dòng đổ về cong vực non cao

Chảy lòng sông hướng về mặt trời mọc

Thấp thoáng sông reo, núi non hùng vĩ

Tiếng hát em vọng vang từ Hẻm Tu Sản ( * )

Cất lên sông núi biên thùy

Âm thanh lời thề sắt son Tổ Quốc

Địa đầu Cột Cờ Lũng Cú tin yêu

Bừng nắng ngày thiêng liêng

Có anh canh giữ

Em theo chuyến thuyền, bến nước bình yên

Dòng chảy mãnh liệt

Con tim em nồng nàn ước mơ

Con đường Hạnh Phúc

Có dải rừng sa mộc đi qua năm tháng đợi chờ

Vòi vọi cánh chim trời nghiêng dựng nghìn đỉnh

Mặc sức đèo cao

Dải lụa mặt sông trải yếm hiền hòa

Tiếng hát như con thuyền mạn vỗ

Mưa nguồn, nắng nung dội sá gì !

Tiếng hát nhớ về kỷ niệm

Nghìn con suối rót như làn dân ca

Tiếng hát gọi yêu dấu

Thung triền ngô mươn mướt

Chén nước chè Shan đậm thấm vị môi

Hoa đào thắm, đá thức hóa thần tiên

Điệu vút cao, sắc hoa em gời gợi

Nơi dãi dầu bất chấp gian khó

Bâng khuâng trìu vọng xúc cảm

Giữ yên lành mái trường em thơ

Con đường về bản nhỏ

Đắp bồi là đây, Nho Quế màu ngọc bích

Tình yêu xứ sở, nơi có anh đứng gác

Tiếng hát gửi về anh Chiến sĩ Biên Phòng.

_________________

( * ) Sông Nho Quế chảy qua Hẻm Tu Sản được xem là "đệ nhất hùng quan" với chiều cao vách đá lên tới 700 - 800m, chiều dài 1,7km, sâu gần 1 cây số, là danh thắng kỳ vĩ độc nhất của vùng cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.

Nguyễn Đức Sơn

Dòng thức bức tranh phố

Đi xa, về gần tiếng chim hoài buồn thương tháp mộ

Tiếng chuông chùa lảnh lót trong trong

Phố tỏa thế giới đam mê

Màu sắc dốc lượn không gian xanh con đường hít thở

Chập chùng sương thả bày cảm xúc bên cánh rừng lâng lâng

Những khóm hoa vạn thọ, tường vi hồng, mai vàng nở rực

Chào phố mở mắt treo khung tranh với đồi Vọng Cảnh ( * )

Vị đắng ca fe quyện, bởi phố đường nét lạ

Bí ẩn cây cọ hòa thấm mồ hôi để thăng hoa…

Tinh khôi ôm vào riêng, xóa đi và bồi thêm kí ức êm đềm

Con mắt ngày mộng mị

Của phiên bản ầm ào tiếng sóng biển

Hơi thở đồng nội hoa trái

Phiên bản khảm vào lồng ngực hoài cảm vẽ dựng tháp uy nghi, cung điện, đền đài

Sắc biếc lợp đường thanh lưu ly, hoàng lưu ly ( * * ) bóng rêu chuốt chầm chậm

Ào ào đắm say trìu tượng và hiện hữu bổng bay

Tia nắng đầu tiên của ngày hắt bôi bảng màu

Bàn tay miệt mài gửi con Phố Tranh lãng mạn

Gương mặt danh họa ròng vỉa phố

có mạch huyết của trái tim dâng trọn

Gương mặt ấy hữu ích làm nên lạ lùng dòng đời

Nép vào bốn mùa gió nắng mưa quàng sóng rừng thông vi vu

Phong vị say đắm thiết tha

Dòng thức bức tranh phố.

______________________________

( * ) Đồi Vọng Cảnh- Phong cảnh đẹp của Cố Đô Huế.

( * * ) Thanh lưu ly, hoàng lưu ly là loại ngói cổ được lợp trên mái di tích đền đài, cung điện tại thành phố Huế, thuộc quần thể Di sản Văn Hóa Thế giới.

Nước nhiều chất vị, khi ở sông, lúc ở đầm phá, đầy khác biệt để tạo nên cảnh sắc và đời sống kỳ vĩ “Mặn lợ bọt bèo dạt trôi/ Rộng dài mái chèo vượt sóng”. Nước có sắc vóc, có nguồn sống mãnh liệt “Con nước vạm vỡ” như một hình hài sống động, tráng kiện. Khi về thị thành, nước sông Hương trong thơ Đức Sơn hóa thành sử thi “Sông chở đời người/ Thành quách soi bóng”, thấm đẫm hơi thở thời gian, trầm tích lắng đọng nhắc nhớ người đời về những dĩ vãng đã qua. Ở tận cùng của đáy sông nước chạm vào huyền sử, chạm vào tỉnh thức “lấp lánh thiền đôi mắt thuyền”. Và nước ở dòng Nho Quế xanh trong “Dải lụa mặt sông trải yếm hiền hòa”, kịp làm nên thiên nhiên hùng vĩ khi chảy qua hẻm Tu Sản “Vòi vọi cánh chim trời nghiêng dựng nghìn đỉnh”.

Đọc những dòng thơ của Đức Sơn khiến tôi nghĩ về cái đạo của đất trời, về Lão Tử rằng: “Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh”, nghĩa là: nước là thiện nhất trong vạn vật, nước làm lợi cho vạn vật mà không tranh giành gì cả. Chỗ thấp nước chảy xuống, bao dung với vạn vật, cung cấp sự sống cho cỏ cây, cho con người một cách vô tư, bất vụ lợi. Cái đạo bất tranh, bao dung, làm lợi cho người khác hơn là việc tư kỷ cho mình quả thật là “thượng thiện”. Và thơ cũng “thượng thiện” như nước, phiêu linh như nước để khiến một người như Nguyễn Đức Sơn say thơ, khát thơ và ăm ắp tình nghĩa cùng thơ đến vậy.

Nhà Văn Lê Vũ Trường Giang giới thiệu

Nguyn Đc Sơn

Người đàn bà tóc ngn chn v vi bin

Đi về đâu tìm

Biển mặn sao nói nhạt nhòa

Rộng sao nói hẹp

Bãi cát vàng trũng xuống cạn cằn!

Ngơ ngác trống, đứng ngồi trước sóng ngẩn ngơ

Rỗng gió, trông hắt phía trời xa

Đẩy khuất xa bến bờ chờ

Hút xoay rỗng bơ phờ cột gió

Nỗi xoáy có trở thành sợi neo trìu buộc biển

Cây sào chống vết tay rạn

Dẫm cồn cát in hình bay bóng

Đã đành chưa cho biết điều gì trước cát

Ước quay về im lặng

Rơi chan và đứng chìm

Xước mui con thuyền bóng câu

Sao không quay về xa xăm trắng cuộn

Nỗi mặc nhiên gió cuốn

Mặc mong trời biển xoay quanh

Néo đỉnh gào sấp mặt mặc nhiên

Trước sóng xanh sâu, xao xanh ngực biển

Gió gội mưa xối lịm

Nát sợi tóc thiếu phụ tìm khan

Tưởng đi lạc qua rậm rừng

Người đàn bà tóc ngắn chọn về với biển.

NĐS

Bài thơ "Người đàn bà tóc ngắn chọn về với biển" của Nguyễn Đức Sơn là một bài thơ mang tính chất tâm linh và tương tác giữa con người và thiên nhiên.

Trong bài thơ, nhà thơ đã miêu tả hình ảnh của một người đàn bà tóc ngắn trở về với biển. Trong suốt hành trình trở về của mình, người đàn bà đã trải qua nhiều cảm xúc và tương tác với biển.

Câu thơ "Đi về đâu tìm/Biển mặn sao nói nhạt nhòa" miêu tả sự bối rối của người đàn bà khi cô không biết biển sẽ đưa cô đi đâu và liệu biển có nhạt nhòa không. Nhà thơ cũng miêu tả biển như một nơi rộng lớn nhưng cũng hẹp hòi, đầy những bãi cát vàng trống trải.

Sự tương tác của người đàn bà với biển được mô tả rõ qua những câu thơ như "Ngơ ngác trống, đứng ngồi trước sóng ngẩn ngơ/Rỗng gió, trông hắt phía trời xa" hay "Hút xoay rỗng bơ phờ cột gió". Những hình ảnh này tạo ra một cảm giác mê hoặc và kỳ lạ, đồng thời làm nổi bật sự yếu đuối của con người trước thiên nhiên.

Cuối cùng, nhà thơ cũng miêu tả sự hy vọng của người đàn bà khi cô ước muốn được quay về và im lặng trong giữa những con sóng. Câu thơ "Tưởng đi lạc qua rậm rừng" miêu tả sự khao khát của người đàn bà để thoát khỏi những sự nghi ngờ và bất an, và trở về với một nơi an lành.

Tóm lại, bài thơ "Người đàn bà tóc ngắn chọn về với biển" của Nguyễn Đức Sơn thể hiện một sự tương tác đầy cảm xúc giữa con người và thiên nhiên. Nhà thơ sử dụng những hình ảnh tuyệt vời để miêu tả sự bối rối, yếu đuối và hy vọng của con người trong mối quan hệ với tự nhiên.

Chúc Sơn giới thiệu

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/chum-tho-nguyen-duc-son-a18154.html