Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi:Mệnh lệnh từ trái tim, khó mấy cũng phải làm hiệu quả

'Việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (Chương trình 1719) không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ, mà còn là tình cảm sâu sắc, mệnh lệnh từ trái tim, mang tính nhân văn cao cả đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi - nơi còn nhiều khó khăn', Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh tại Hội nghị tổng kết Chương trình giai đoạn 1 ngày 13/8/2025.

Đóng góp quan trọng vào giảm nghèo bền vững

Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chủ yếu ở các khu vực núi cao, biên giới, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng; giàu tiềm năng và lợi thế về kinh tế nông - lâm nghiệp, khoáng sản, thủy điện, du lịch sinh thái, thương mại qua biên giới… Tuy nhiên, khí hậu khắc nghiệt, địa hình bị chia cắt mạnh, giao thông đi lại khó khăn, thường xuyên gặp thiên tai. Do đó, kinh tế - xã hội khu vực này còn khó khăn, hạ tầng chưa phát triển, tỷ lệ hộ nghèo cao, tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa hạn chế…

Năm 2020, Quốc hội đã thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I từ năm 2021 - 2025.

Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị bên lề hội nghị. Ảnh: Nhật Bắc

Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị bên lề hội nghị. Ảnh: Nhật Bắc

Với 10 dự án, được triển khai từ năm 2022, Chương trình đã hỗ trợ đất ở cho 10.549 hộ; hỗ trợ nhà ở cho 42.567 hộ, hỗ trợ trực tiếp đất sản xuất cho 13.387 hộ, hỗ trợ chuyển đổi nghề cho 54.899 hộ; hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán cho 479.358 hộ; đầu tư xây dựng 809 công trình nước sinh hoạt tập trung.

Quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết cho 25.056 hộ; các địa phương đã triển khai hỗ trợ khoán bảo vệ 1.478.962ha diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, tương đương 323.769 hộ được hỗ trợ; triển khai 403 dự án hỗ trợ phương thức sản xuất theo chuỗi giá trị, với tổng giá trị lên tới 306 tỷ đồng; triển khai hỗ trợ 383 dự án, mô hình chăn nuôi, trồng trọt với 36.654 hộ tham gia.

Chương trình cũng triển khai hỗ trợ đầu tư 6.018 công trình giao thông nông thôn, 8.673km đường giao thông được nhựa hóa, bê tông hóa hoặc cứng hóa; 442 công trình cung cấp điện, 90 trạm chuyển tiếp phát thanh xã; 1.787 nhà sinh hoạt cộng đồng; hỗ trợ 1.901 mô hình đào tạo nghề với 115.575 người lao động tham gia.

Tại các địa phương, đã hỗ trợ đầu tư xây dựng, bảo tồn 48 làng, bản và 69 điểm đến du lịch tiêu biểu truyền thống của các dân tộc thiểu số; 4.409 nhà văn hóa/khu thể thao tại các thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được đầu tư xây dựng và hỗ trợ trang thiết bị, tu bổ, tôn tạo…

Đến nay, đã có 6 nhóm nhiệm vụ cơ bản đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra. Trong đó, tỷ lệ giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt bình quân 3,4%, vượt dự kiến chương trình là 3,2%; thu nhập bình quân đạt 43,4 triệu đồng/người, tăng 3,1 lần so với năm 2020. Nhóm mục tiêu về giáo dục, lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện đạt bình quân 54,8, vượt mục tiêu chương trình là 50%. Bảo tồn và phát triển các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; tăng cường công tác y tế để đồng bào được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại, tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh…

Theo Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Đào Ngọc Dung, những kết quả đạt được là minh chứng rõ ràng cho định hướng đúng đắn của Chương trình; đồng thời tạo nền tảng và niềm tin vững chắc cho giai đoạn 2026 - 2030.

Tăng 10 - 15% nguồn lực cho giai đoạn 2

Tuy nhiên, giai đoạn 1 vẫn còn 3 nhóm mục tiêu chưa đạt. Đó là nhóm mục tiêu về cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn, trong đó tỷ lệ trường, lớp học được xây dựng kiên cố mới đạt 94,6%, tỷ lệ đồng bào được xem truyền hình đạt 97%, tỷ lệ đồng bào được nghe đài phát thanh đạt 98,3%; nhóm mục tiêu số xã, thôn ra khỏi địa bàn đặc biệt khó khăn; và nhóm mục tiêu về công tác định canh, định cư, giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào.

Trăn trở về cách tổ chức thực hiện Chương trình thời gian qua, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, phải đổi mới tư duy, có cách tiếp cận toàn dân, toàn diện, cả hệ thống chính trị vào cuộc; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi và thiết kế công cụ, tăng cường giám sát, kiểm tra; hoàn thiện thể chế để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; quy hoạch phát triển, sản xuất, các sản phẩm đặc trưng…

Đại biểu Vừ A Ly (xã Vân Hồ, Sơn La) tặng Thủ tướng sản phẩm rau xanh do công ty sản xuất. Ảnh: Nhật Bắc

Đại biểu Vừ A Ly (xã Vân Hồ, Sơn La) tặng Thủ tướng sản phẩm rau xanh do công ty sản xuất. Ảnh: Nhật Bắc

Đối với địa phương có các sản phẩm tiêu biểu (OCOP), phải xây dựng thương hiệu, quy hoạch vùng trồng nguyên liệu bài bản; ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; liên kết với doanh nghiệp để cung ứng hàng hóa, vật tư phục vụ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; huy động ngân hàng hỗ trợ vốn; đẩy mạnh liên kết giữa các hộ gia đình, hợp tác xã; phát triển hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, doanh nghiệp nhỏ thành doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp lớn thành doanh nghiệp đa quốc gia, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

Để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Thủ tướng đưa ra 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cho Chương trình trong giai đoạn tới. Đáng chú ý, sẽ cân đối, bố trí nguồn lực ưu tiên cho Chương trình trong 5 năm tới, dự kiến tăng khoảng 10 - 15% ngân sách (khoảng 150.000 - 160.000 tỷ đồng, so với 137.000 tỷ đồng của giai đoạn 1);. Trung ương bố trí nguồn lực và tăng cường kiểm tra, giám sát, giao địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm.

Thủ tướng nêu rõ, nguồn lực sẽ tập trung cho một số nhiệm vụ: tạo việc làm, sinh kế cho người dân; bảo đảm tiếp cận bình đẳng y tế, văn hóa, giáo dục, nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng, kiên cố hóa trường học, trong đó có trường học cho 248 xã biên giới; phát triển hạ tầng giao thông, viễn thông, điện, nước, bảo đảm tính bền vững trong phát triển. Chú ý nguồn lực về con người, bố trí bác sĩ, giáo viên.

Thủ tướng nhấn mạnh, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ của của cả hệ thống chính trị, mà còn là tình cảm sâu sắc, là mệnh lệnh từ trái tim, mang tính nhân văn cao cả, khẳng định tình dân tộc, nghĩa đồng bào, không có ai bị bỏ lại phía sau. “Do đó, khó mấy cũng phải làm, càng áp lực càng nỗ lực và đã làm thì phải có hiệu quả cụ thể, cân đong đo đếm được”.

Theo Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia, nước ta có 53 dân tộc thiểu số với dân số trên 14,4 triệu người, cư trú trên địa bàn chiếm khoảng 3/4 diện tích tự nhiên của cả nước. Sau sắp xếp địa giới hành chính và tổ chức bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp, cả nước có 1.516 xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn 32 tỉnh, thành phố.

Hương Linh

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-menh-lenh-tu-trai-tim-kho-may-cung-phai-lam-hieu-qua-10384631.html