Chuyển đổi mô hình tăng trưởng: Những cuộc đối thoại ở lằn ranh - Bài 1: Những gương mặt đại diện
Khoảng cách giữa dệt may và bán dẫn, giữa động lực truyền thống và động lực mới của nền kinh tế Việt Nam hóa ra không quá xa, nhất là khi cùng đối diện với câu hỏi về phần giá trị của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Đang có những cuộc đối thoại thẳng thắn bên trong cộng đồng doanh nghiệp, giữa động lực tăng trưởng truyền thống và động lực tăng trưởng mới, giữa doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách về con đường đi đến thập kỷ thịnh vượng của đất nước mà ai cũng muốn có mặt.
Ba thập kỷ hội nhập đã đưa Việt Nam trở thành một trung tâm sản xuất và xuất khẩu quan trọng của thế giới. Nhưng nền kinh tế chọn mục tiêu tăng trưởng 2 con số đang đối diện với những thách thức ở lằn ranh chuyển đổi.

Khoảng cách giữa dệt may và bán dẫn, giữa động lực truyền thống và động lực mới của nền kinh tế Việt Nam không quá xa khi cùng đối diện với câu hỏi về phần giá trị của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Ảnh: Lê Toàn. Đồ họa: Đan Nguyễn
Bài 1: Những gương mặt đại diện
Khoảng cách giữa dệt may và bán dẫn, giữa động lực truyền thống và động lực mới của nền kinh tế Việt Nam hóa ra không quá xa, nhất là khi cùng đối diện với câu hỏi về phần giá trị của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Dệt may có cô đơn?
Sự xuất hiện của một đại diện ngành dệt may bên cạnh các doanh nghiệp công nghệ tại một phiên thảo luận về mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam gần đây chắc chắn không phải là một sự sắp đặt ngẫu nhiên. Nhưng khoảnh khắc ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), chia sẻ cảm giác “cô đơn” - dù theo nghĩa đen - đã khiến không khí cuộc đối thoại chùng xuống.
“Chúng tôi ý thức rất rõ, dệt may là loại công nghệ cổ điển, thuộc nhóm động lực tăng trưởng cũ đang cần làm mới. Nhưng để tạo ra một sự bứt phá thực sự thì không hề dễ”, ông Trường nói.
Trước đó, ông liên tục nhận được những câu hỏi thẳng thắn từ các doanh nghiệp công nghệ: Dệt may có nên tiếp tục “làm mới” chủ yếu bằng đầu tư nguyên phụ liệu, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa? Vì sao không xây dựng được thương hiệu dệt may nội địa? Thậm chí, có câu hỏi mang hàm ý gai góc: Phải chăng vì gia công quá lâu, nên tư duy tự chủ đã bị bào mòn?
Là “gương mặt đại diện” một thời của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập, dệt may vẫn đang đứng ở đỉnh cao về quy mô, với khả năng đạt khoảng 46 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu năm 2025, giữ vững vị trí trong Top 3 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Nhưng chính ngành này cũng đang trở thành đại diện cho những trăn trở lớn hơn của các động lực tăng trưởng truyền thống trước những thách thức mang tính thời đại.

Dệt may thuộc nhóm động lực tăng trưởng cũ đang cần làm mới. Ảnh: Đức Thanh
Mười năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng của dệt may Việt Nam chỉ còn 5-7%/năm, thay vì 2 con số kéo dài nhiều năm trước năm 2015. Theo ông Trường, có 2 nguyên nhân cốt lõi: Tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) của thị trường dệt may toàn cầu đã giảm mạnh; cạnh tranh ngày càng gay gắt, yêu cầu về tiêu chuẩn, môi trường và truy xuất nguồn gốc từ các thị trường nhập khẩu lớn ngày càng khắt khe.
Ở góc độ kinh tế học, sự giảm tốc của các ngành thâm dụng lao động không hẳn là tín hiệu tiêu cực. Đó là bước chuyển tự nhiên trong quá trình tái cơ cấu, khi nền kinh tế buộc phải rời khỏi những nấc thang thấp để tiến lên các tầng giá trị cao hơn. Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) đều đã đi qua giai đoạn tương tự trước khi xuất hiện những “gương mặt đại diện” mới đến từ công nghiệp công nghệ cao, chip và bán dẫn.
Nhưng ở góc độ từng ngành cụ thể, bài toán không hề đơn giản. Theo cách nhìn chung của cả giới chuyên gia và doanh nghiệp, dệt may chỉ có hai con đường: giảm nhập khẩu nguyên liệu, gia tăng nội địa hóa để gia tăng giá trị thặng dư; hoặc sử dụng công nghệ để nâng giá trị tạo ra trên mỗi lao động. Với tỷ lệ nội địa hóa khoảng 52% hiện nay, dư địa tăng lên 60-65% vẫn còn, nhưng không đủ để dệt may tạo ra một cú nhảy vọt về vị thế giá trị.
Thực tế phũ phàng là, ngay cả khi năng suất lao động tăng gấp đôi mà không thay đổi cách làm, tiền công của người may áo chỉ có thể tăng từ 1-2% lên 2-4%. Phần giá trị lớn nhất vẫn nằm ở khâu thương hiệu, thiết kế và phân phối - những mắt xích mà dệt may Việt Nam khó chạm tới khi không có thị trường nội địa cực lớn, bản sắc đủ mạnh và năng lực tự chủ công nghệ đủ sâu.
“Đây là lúc cần sự tham gia của doanh nghiệp công nghệ, của chuyển đổi số, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo (AI)…”, ông Trường đặt lại vấn đề khi tìm lời giải cho câu hỏi là làm thế nào để dệt may vẫn có thể đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng 2 con số của nền kinh tế, trong một thập kỷ mà “xanh” và “số” đang chi phối toàn bộ tư duy phát triển.

Nghịch lý của “đường cong nụ cười”
Cuộc đối thoại trên đã chạm vào vấn đề lớn hơn, đó là nghịch lý đường cong nụ cười (Smile Curve) của nhà kinh tế học và kinh doanh nổi tiếng Stan Shih, đồng sáng lập hãng máy tính Acer, đưa ra từ cuối thập niên 1990. Trong chuỗi giá trị toàn cầu, lợi nhuận cao nhất nằm ở hai đầu: nghiên cứu - phát triển (R&D) và thương hiệu - phân phối. Gia công, lắp ráp ở đáy nụ cười là phần dễ tham gia nhất, nhưng cũng là nơi giá trị gia tăng thấp nhất và dễ bị mắc kẹt nhất.
Nhìn lại hơn 40 năm Đổi mới và gần 30 năm hội nhập, Việt Nam đã đi rất nhanh vào đáy của đường cong này và có lẽ đã ở lại đó quá lâu. Xuất khẩu tăng trưởng ngoạn mục, quy mô thương mại mở rộng gần 60 lần so với đầu thập niên 1990, trở thành động lực tăng trưởng quan trọng nhất và định hình mô hình kinh tế dựa trên xuất khẩu.
Nhưng mặt trái của mô hình gia công vẫn hiện hữu rõ nét. Năm 2024, chỉ khoảng 18% doanh nghiệp Việt Nam có kết nối với chuỗi giá trị toàn cầu, giảm 17 điểm phần trăm so với năm 2009 và chủ yếu tập trung ở nhóm doanh nghiệp lớn. Công nghiệp hỗ trợ mới chỉ đáp ứng được 10-15% nhu cầu trong nước. Phần lớn các ngành chế biến, chế tạo có độ lan tỏa cao về sản lượng, nhưng lan tỏa thấp về giá trị gia tăng và kích thích nhập khẩu mạnh - dấu hiệu điển hình của nền kinh tế gia công.
Đáng chú ý, nghịch lý này không chỉ là câu chuyện riêng của các động lực tăng trưởng truyền thống.
Trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ số, Việt Nam đang nổi lên nhanh chóng với những thứ hạng ấn tượng: đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu điện thoại thông minh, thứ 5 về linh kiện máy tính, thứ 8 về linh kiện điện tử và thứ 7 về gia công phần mềm. Hệ sinh thái khởi nghiệp số, đặc biệt trong lĩnh vực AI, đang xếp thứ 2 Đông Nam Á về số lượng start-up, chỉ sau Singapore.
Nhưng phần giá trị mà doanh nghiệp Việt Nam nắm giữ vẫn rất thấp. Theo nghiên cứu của Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, tỷ lệ hàm lượng giá trị gia tăng trong nước trong xuất khẩu các ngành điện tử, máy tính, điện thoại và linh kiện năm 2024 chỉ khoảng 27,8% - thấp xa so với Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ hay Trung Quốc.
Ngay cả ở lĩnh vực được coi là “động lực của tương lai” như bán dẫn, nghịch lý cũng đã lộ diện. Việt Nam đứng thứ 10 thế giới về xuất khẩu vi mạch, với giá trị khoảng 25 tỷ USD, nhưng vẫn chưa tự sản xuất được chip, phải nhập khẩu gần như toàn bộ, khiến cán cân thương mại ngành này ở trạng thái âm. Phần việc Việt Nam tham gia chủ yếu là lắp ráp, kiểm thử - công đoạn chỉ chiếm khoảng 6% giá trị gia tăng của chuỗi bán dẫn toàn cầu.
Đáng nói là, đóng góp của doanh nghiệp nội địa trong tổng doanh thu ngành công nghiệp công nghệ số năm 2024 mới đạt khoảng 7,3%, tương đương 11,5 tỷ USD, dù đã tăng mạnh.
Khoảng cách giữa dệt may và bán dẫn, giữa động lực cũ và động lực mới, hóa ra không xa như người ta tưởng, khiến GS-TS. Hoàng Văn Cường, Ủy viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội phải đặt câu hỏi: Liệu mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu có còn giá trị?
Thách thức ở lằn ranh
Với Việt Nam, câu hỏi “giá trị để lại cho nền kinh tế là bao nhiêu” không còn là một chỉ báo kỹ thuật. Đó là thước đo của nội lực phát triển, của khả năng chống chịu và năng lực bứt phá trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng bất định, thương mại phân mảnh và địa chính trị căng thẳng.
“Nếu ngay cả ngành bán dẫn, biểu tượng của công nghiệp công nghệ cao mà vẫn chủ yếu đứng ở đáy gia công, thì dù năng suất lao động có tăng gấp đôi, phần giá trị để lại trong nước vẫn rất thấp. Khi đó, bẫy thu nhập trung bình không chỉ còn là nguy cơ”, GS-TS. Hoàng Văn Cường cảnh báo.
Áp lực càng lớn khi Việt Nam đang ở giai đoạn dân số vàng, nhưng quỹ thời gian không còn nhiều - chỉ khoảng 15 năm phía trước. Nếu tiếp tục xoay quanh những khâu giá trị thấp, cơ hội lịch sử để tái định vị nền kinh tế trên bản đồ chuỗi giá trị toàn cầu có thể bị bỏ lỡ.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng, vì thế, không còn là câu chuyện chọn gương mặt đại diện nào cho mô hình kinh tế mới, mà căn cơ hơn, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn tăng trưởng cao với tư cách một nền kinh tế làm chủ giá trị, hay tiếp tục tăng trưởng nhanh trong vai trò một trung tâm gia công ngày càng đắt đỏ?
(Còn tiếp)











