Chuyên gia bàn cách đưa 4 loại quả bình dân thành trái cây tỷ đô
Tổng diện tích canh tác 4 loại trái cây chanh leo, dứa, dừa và chuối hiện đạt khoảng 420.000 ha với sản lượng trên 6,3 triệu tấn, cho thấy nguồn lực sản xuất dồi dào và có tiềm năng lớn về xuất khẩu.

Các đại biểu tham gia thảo luận về giá trị khác biệt tạo nên lợi thế cạnh tranh của 4 loại trái cây chanh dây, chuối, dứa và dừa. (Ảnh: CTV/Vietnam+)
Trong bức tranh chung của ngành trồng trọt Việt Nam, nhóm cây ăn quả ngày càng khẳng định vai trò động lực trong tăng trưởng nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho nông dân và đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu nông sản cả nước. Năm 2024, tổng diện tích cây ăn quả đạt khoảng 1,28 triệu ha, trong đó 4 loại trái cây gồm chanh dây, chuối, dứa và dừa là những đại diện tiêu biểu, hội tụ nhiều lợi thế và tiềm năng xuất khẩu.
Thông tin này được đưa ra tại Diễn đàn “Giải pháp tăng sức cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm trái cây có lợi thế: Chanh leo, chuối, dứa, dừa” do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 18/7.
Cơ hội vươn lên giá trị tỷ đô
Chia sẻ thông tin về 4 loại trái cây đang có nhiều tiềm năng, Thạc sỹ Ngô Quốc Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm Kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu II (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết dừa là loại trái cây có diện tích lớn nhất, 202.000 ha, sản lượng 2,28 triệu tấn, chủ yếu từ Đồng bằng Sông Cửu Long. Việt Nam thuộc nhóm quốc gia xuất khẩu dừa hàng đầu thế giới. Tới năm 2030, ngành sẽ chuyển sang chế biến sâu, sản xuất theo quy trình GAP, phát triển trồng xen, nuôi xen và tích hợp du lịch sinh thái miệt vườn, OCOP.
Với chanh dây, Việt Nam hiện đạt 163.000 tấn sản lượng/năm, chủ yếu từ Tây Nguyên. Định hướng đến năm 2030 là 300.000 tấn, với vùng trọng điểm là Lâm Đồng, Đắk Nông, Gia Lai. Chanh dây đang ở giai đoạn cuối để được Mỹ cấp phép nhập khẩu, đồng thời đã gửi hồ sơ sang Hàn Quốc và Thái Lan. Trong bối cảnh đã xuất khẩu 70-80% sản lượng, ngành cần tập trung vào giống sạch bệnh và nâng cao giá trị gia tăng.
Theo ông Tuấn, dứa có sản lượng 860.000 tấn, trồng chủ yếu ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Đến năm 2030, dự kiến đạt gần 1 triệu tấn, với diện tích mở rộng và trồng rải vụ để phục vụ chế biến, trái vụ. Dù đã xuất sang 122 quốc gia, Việt Nam chưa mở hồ sơ kỹ thuật cho thị trường mới. EU là thị trường tiềm năng có thể tận dụng qua EVFTA.
Còn với chuối, loại trái cây này hiện đạt sản lượng 3 triệu tấn, là mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và EU. Với hơn 625.000 tấn xuất sang Trung Quốc năm 2024, ngành chuối được định hướng giữ vững thị phần bằng cách nâng cao chất lượng, mẫu mã và xây dựng thương hiệu.

Dừa có diện tích trồng lên tới 202.000 ha, sản lượng 2,28 triệu tấn, chủ yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam Đặng Phúc Nguyên đánh giá nhu cầu tiêu thụ dứa trên thế giới đang tăng mạnh, với quy mô thị trường toàn cầu đạt khoảng 29 tỷ USD vào năm 2024 và tiếp tục tăng trưởng kép hằng năm ở mức 6,3%. Thị trường châu Âu và Bắc Mỹ chiếm tới 50% nhu cầu tiêu thụ, cho thấy tiềm năng xuất khẩu rất lớn.
Dứa Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao, điển hình như sản phẩm nước dứa cô đặc của DOVECO đã xuất khẩu sang hơn 50 quốc gia, được người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao. Thậm chí, các sản phẩm Việt Nam vượt qua cả các mặt hàng từ Mỹ và châu Âu, qua đó khẳng định vị thế ngày càng vững chắc của dứa Việt trên trường quốc tế.
Ông Phạm Quốc Liêm, Chủ tịch Hội đồng Quản trị , Tổng Giám đốc Unifarm, cho biết năm 2024, chuối mang về cho Việt Nam 378 triệu USD từ xuất khẩu, tương ứng khoảng 2.400 USD/ha - mức thu nhập chưa tương xứng với tiềm năng. Unifarm kỳ vọng ngành hàng chuối Việt Nam có thể vươn lên đạt giá trị xuất khẩu 4 tỷ USD trong thời gian tới. Điều này đồng nghĩa với việc giá trị sản xuất phải đạt ít nhất 20.000 USD/ha, gấp gần 10 lần hiện nay nhưng theo ông Liêm, hoàn toàn khả thi nếu toàn ngành cùng hướng đến sản xuất quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao và duy trì chất lượng đồng đều.
Còn đối với chanh dây, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Nafoods chia sẻ: “Từ con số 0 cách đây 10 năm, ngành chanh dây đã tạo ra giá trị kinh tế đáng kể (mảng cô đặc và puree cán mốc 300 triệu USD, cả quả tươi có thể đạt hơn 500 triệu USD trong năm nay) và có tiềm năng cán mốc 1 tỷ USD nếu quy hoạch tốt và thị trường Trung Quốc mở rộng.”
Chuyển từ sản lượng sang tăng chất lượng
Dù 4 loại trái cây có tiềm năng xuất khẩu lớn, ông Nguyễn Như Cường, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) vẫn lưu ý rằng đến nay, sầu riêng đã nổi bật vươn lên thành sản phẩm trái cây duy nhất lọt vào nhóm xuất khẩu "tỷ đô", với kim ngạch đạt gần 2,3 tỷ USD năm 2023 và 3,3 tỷ USD năm 2024. Trong khi đó, những mặt hàng từng có vị thế như thanh long lại sụt giảm mạnh, từ hơn 1 tỷ USD xuống chỉ còn 534 triệu USD năm 2024.
“Thực tế này cho thấy vẫn còn rất nhiều việc cần triển khai để đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn hiện nay,” ông Cường nói.
Tại diễn đàn, ông Tuấn cũng chỉ ra rằng ngành trái cây Việt Nam đang đối mặt với nhiều rào cản kỹ thuật từ các thị trường nhập khẩu như kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc. Một số vụ việc vi phạm khiến mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói bị thu hồi (sầu riêng, mít), ảnh hưởng đến thương mại. Việc mở cửa sang Nam Mỹ gặp khó khăn về vận chuyển và cạnh tranh. Thị trường ASEAN tuy gần nhưng sản phẩm tương đồng, khó tạo sự khác biệt. Ngành trái cây cần nhìn lại chiến lược phát triển, chuyển từ tăng sản lượng sang tăng chất lượng, công nghệ và thương hiệu.
“Muốn xuất khẩu tốt, chúng ta phải làm tốt truy xuất nguồn gốc và liên kết chuỗi. Theo đó, mỗi doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ nông dân phải trở thành một mắt xích quan trọng trong việc minh bạch hóa và cam kết đảm bảo an toàn trong toàn bộ chuỗi giá trị xuất khẩu,” ông Tuấn nhận định.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam phát biểu tại Diễn đàn. (Ảnh: Bộ Nông nghiệp và Môi trường)
Phát biểu tại diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam nhấn mạnh tổng diện tích canh tác 4 loại trái cây chanh leo, dứa, dừa và chuối hiện đạt khoảng 420.000 ha với sản lượng trên 6,3 triệu tấn, cho thấy nguồn lực sản xuất dồi dào và có tiềm năng lớn về xuất khẩu. Nhu cầu thị trường đối với các mặt hàng này cũng rất lớn, thậm chí nhiều doanh nghiệp phản ánh không đủ nguồn cung để đáp ứng.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Trần Thanh Nam cũng chỉ ra những con số cần suy ngẫm. Mặc dù dừa đã đạt kim ngạch xuất khẩu 1,1 tỷ USD vào năm 2024, thuộc top 7 mặt hàng nông sản chủ lực, nhưng chuối mới đạt 380 triệu USD, chanh leo 222 triệu USD và dứa thậm chí chưa đến 50 triệu USD. Điều này cho thấy chúng ta, từ góc độ cơ quan quản lý Nhà nước, hợp tác xã, người trồng… còn rất nhiều việc phải làm để đưa các mặt hàng này lên tầm tỷ đô, có thể là vào năm 2026 hoặc 2027.
Thứ trưởng Trần Thanh Nam đánh giá rằng cả 4 mặt hàng đều đang đối diện với các thách thức giống nhau như: Bộ giống còn đơn điệu, thiếu giống tốt, giống chống chịu với các loài sâu bệnh hại quan trọng, thiếu vùng nguyên liệu đạt chuẩn, liên kết rời rạc, tỷ lệ chế biến thấp, thiếu thương hiệu quốc gia, và thị trường vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Công tác truy xuất nguồn gốc vẫn gặp vướng mắc, đặc biệt là trong bảo hộ giống cây trồng.
Trong bối cảnh đó, Nghị định số 88/2025/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 193/2025/QH15 đã tháo gỡ nhiều rào cản, mở ra cơ hội đột phá trong nghiên cứu giống mới. Bên cạnh đó, hiện nay việc phân cấp cho các vùng địa phương theo Nghị định số 145/2025/NĐ‑CP đã đặt ra 17 nhiệm vụ cho từng xã về vùng nguyên liệu và cấp mã số vùng trồng. Đây là cơ sở quan trọng để địa phương chủ động phối hợp với doanh nghiệp và hợp tác xã trong quản lý và phát triển vùng trồng một cách bài bản, hiệu quả.
"Riêng với vùng nguyên liệu, yếu tố then chốt để truy xuất nguồn gốc và tiếp cận các thị trường khó tính, doanh nghiệp cần chủ động phối hợp với hợp tác xã để xây dựng mô hình liên kết chặt chẽ từ đầu vào đến đầu ra, đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế,” Thứ trưởng Trần Thanh Nam nhận định./.