Chuyên gia vi mạch bán dẫn Nguyễn Phúc Vinh: 10 năm tới, thế giới sẽ không còn hỏi 'Việt Nam có làm được chip không?'

Ông Nguyễn Phúc Vinh, chuyên gia Vi mạch Bán dẫn với hơn 20 năm kinh nghiệm, Phó Chủ tịch Hội Công nghệ Vi mạch Bán dẫn TP. Hồ Chí Minh khẳng định, Việt Nam đang ở ngưỡng cửa lịch sử để bước vào ngành công nghiệp bán dẫn một cách tự tin.

Ông Nguyễn Phúc Vinh, chuyên gia Vi mạch Bán dẫn với hơn 20 năm kinh nghiệm, Phó Chủ tịch Hội Công nghệ Vi mạch Bán dẫn TP. Hồ Chí Minh. (Ảnh: NVCC)

Ông Nguyễn Phúc Vinh, chuyên gia Vi mạch Bán dẫn với hơn 20 năm kinh nghiệm, Phó Chủ tịch Hội Công nghệ Vi mạch Bán dẫn TP. Hồ Chí Minh. (Ảnh: NVCC)

Bán dẫn đang là một ngành công nghiệp "nóng" trên toàn thế giới và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Là một chuyên gia trong ngành, theo ông, sự phát triển của ngành bán dẫn tại Việt Nam ở thời điểm hiện tại như thế nào?

Sau hơn 25 năm hình thành và phát triển, ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam đang bước vào một giai đoạn chuyển mình đầy hứa hẹn.

Giống như các ngành công nghiệp khác, Việt Nam từ chỗ đóng vai trò khiêm tốn là hỗ trợ chuỗi cung ứng, nay đã bắt đầu định vị mình là một nhân tố quan trọng qua việc chủ động tham gia sâu vào các công đoạn thiết kế, đóng gói và kiểm thử.

Ngày càng có nhiều kỹ sư Việt và doanh nghiệp Việt tham gia và chịu trách nhiệm thiết kế các chip tiên tiến đẳng cấp quốc tế để việc triển công nghệ tiên tiến cho ngành.

Sự ra đời của những doanh nghiệp nội địa như FPT Semiconductor, CT Group, VNChip cùng sự hiện diện ngày càng rõ nét của các tập đoàn công nghệ Mỹ như Intel, Synopsys, Marvell, Amkor, Nvidia tại Việt Nam không chỉ đánh dấu bước tiến về kỹ thuật, mà còn chứng tỏ niềm tin của giới đầu tư quốc tế vào năng lực của nước nhà.

Bên cạnh đó, việc Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn và Chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 là minh chứng cho quyết tâm chính trị ở cấp cao nhất – điều này khiến tôi khá bất ngờ vì chỉ kỳ vọng một vài thành phố lớn đưa ra kế hoạch khả thi và quyết tâm.

Dù còn đối mặt với nhiều thách thức về cơ chế, hạ tầng, hệ sinh thái công nghiệp phụ trợ và công nghệ cần phải giải quyết, không thể phủ nhận, Việt Nam đang sở hữu những lợi thế chiến lược so với một số nước lân cận như dân số trẻ và giỏi STEM (Khoa học-công nghệ-kỹ thuật-toán học), chi phí sản xuất cạnh tranh, môi trường chính trị ổn định, hệ thống quan hệ thương mại tự do rộng khắp và quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, đặc biệt với Mỹ sau khi nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện năm 2023.

Ngành bán dẫn không chỉ có cơ hội "nghìn năm có một" để phát triển kinh tế, nâng tầm cho nền khoa học công nghệ (điều mà Bộ Chính trị đã nêu trong Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024), mà còn là lời tuyên bố về khát vọng tự chủ và là cơ hội lớn để Việt Nam thoát bẫy thu nhập trung bình. Trong 10-20 năm tới, nếu được đầu tư đúng hướng, đất nước hoàn toàn có thể trở thành một mắt xích không thể thiếu trong chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu.

Có thể khẳng định, bán dẫn không đơn thuần là một ngành công nghiệp công nghệ cao, mà là trụ cột mới để kiến tạo vị thế công nghệ, độc lập tự chủ và tự cường quốc gia trong kỷ nguyên số.

Ông đánh giá thế nào về hiện trạng và tiềm năng phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ngành bán dẫn của Việt Nam? Liệu rằng trong tương lai, Việt Nam có thể tự chủ các công đoạn, để tự hào với Chip "Make in Vietnam"?

Vấn đề này chạm đến một trong những kỳ vọng lớn nhất cho ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam của cá nhân tôi: Liệu khi nào và làm thế nào chúng ta có thể tham gia đủ toàn bộ chuỗi giá trị vi mạch bán dẫn? Với những diễn biến gần đây, đặc biệt là việc CT Group khởi công nhà máy ATP do người Việt làm chủ đầu tiên tại Việt Nam, tôi cho rằng, hoàn toàn có thể nếu đi đúng hướng và kiên trì đầu tư dài hạn!

Để hiểu rõ hơn về thực trạng ngành bán dẫn tại Việt Nam đang ở đâu trong chuỗi giá trị, tôi xin tóm lược dưới đây. Chuỗi giá trị vi mạch bán dẫn thường được nêu với 5 công đoạn, bao gồm: Thiết kế vi mạch (IC-Design) – sản xuất chất bán dẫn tại nhà máy (FAB) – hóa chất, vật liệu và máy móc sản xuất (SME) – đóng gói kiểm thử (ATP) – ứng dụng đầu cuối (Application).

Công đoạn thiết kế: Việt Nam hiện có hơn 6.000 kỹ sư, có nhóm khoảng 100 chuyên gia có nhiều hơn 20 năm kinh nghiệm hiện đang thiết kế các loại chip công nghệ đến 3nm, mức độ phức tạp khá nổi bật. 90% nhân lực và số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Một số doanh nghiệp Việt nổi bật như Viettel High Tech, FPT Semiconductor, VNChip.

Công đoạn sản xuất: Việt Nam chưa có nhà máy FAB (xưởng đúc chip) ở quy mô công nghiệp, chúng ta có các phòng lab chế tạo mẫu thử đặt tại Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, công nghệ khá thấp chỉ phù hợp sản xuất thử nghiệm các sản phẩm MEMS hoặc cảm biến. Chi phí đầu tư một xưởng đúc thường lên đến hàng tỷ USD với thời gian đầu tư hàng chục năm sẽ là rào cản khó vượt qua nếu không có hỗ trợ từ Chính phủ.

Công đoạn ATP: Đây là khâu mà Việt Nam đang phát triển mạnh với các tên tuổi lớn như Intel, Hana Micon, Amkor. Nhà máy ATP của CT Semiconductor tại Bình Dương sẽ là nhà máy đầu tiên dạng này của người Việt. Ngoài ra đóng gói tiên tiến (Advanced packaging) sẽ là "miền đất hứa" cho các doanh nghiệp Việt thể hiện năng lực vì chúng ta chưa bị bỏ lại quá xa.

Công đoạn SME: Chúng ta cũng đã thành công thu hút vốn FDI tại cả Miền Bắc và Miền Nam cho các khâu sản xuất vật liệu bán dẫn và máy móc chính xác – tiên tiến hỗ trợ sản xuất bán dẫn. FDI chiếm gần 100% nhưng chúng ta có nhiều tiềm năng về tài nguyên cát thạch anh, trữ lượng đất hiếm lớn và phong phú cộng thêm ngành công nghiệp cơ khí chính xác đang phát triển ổn định.

Dưới góc nhìn cá nhân, với kinh nghiệm làm việc trực tiếp tại Mỹ và hiện đang lãnh đạo doanh nghiệp công nghệ Mỹ hoạt động tại Việt Nam, tôi nhận thấy, hệ sinh thái khởi nghiệp bán dẫn của Việt Nam đang chuẩn bị qua giai đoạn "khởi động", chuẩn bị vào giai đoạn "vượt chướng ngại vật". Thực tế, số lượng startup bán dẫn tại Việt Nam đang tăng dần hằng quý – tuy con số còn chưa quá lớn về quy mô do đặc thù ngành này đòi hỏi chi phí đầu tư lớn, thời gian nghiên cứu dài và cần xây đội ngũ nhân sự có chuyên môn kỹ thuật chuyên sâu và kinh nghiệm.

Việc phát triển chip 5G, ADC, SoC hay PMIC trong thời gian ngắn tại Viettel, FPT Semi, CT Group, với chất lượng mức thương mại hóa được ghi nhận là bước chạy đà đáng trân trọng. Có thể khẳng định, Việt Nam đang từng bước tiến vào chuỗi giá trị bán dẫn toàn cầu, không chỉ với vai trò gia công mà còn là tham gia tích cực tất cả các khâu từ thiết kế, kiểm thử đến thương mại hóa chip.

Riêng về hệ sinh thái khởi nghiệp ngành bán dẫn, theo tôi, sẽ không phát triển theo số lượng đại trà như các lĩnh vực khác. Thay vào đó, thành công sẽ đến từ những startup quy mô vừa, có khả năng tài chính đủ để phát triển và sở hữu công nghệ, có tư duy toàn cầu, có thể đi rất nhanh với tinh thần kiên định.

Trong 10-20 năm tới, nếu được đầu tư đúng hướng, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành một mắt xích không thể thiếu trong chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu. (Nguồn: VSF)

Trong 10-20 năm tới, nếu được đầu tư đúng hướng, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành một mắt xích không thể thiếu trong chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu. (Nguồn: VSF)

Nhìn từ nước Mỹ và các quốc gia/vùng lãnh thổ khác, Việt Nam có thể học hỏi được điều gì trong vấn đề phát triển ngành công nghiệp bán dẫn và phát triển triển hệ sinh thái khởi nghiệp ngành này?

Trong tiến trình phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, Việt Nam có thể học được nhiều bài học quý giá từ các quốc gia/vùng lãnh thổ đi trước, đặc biệt là Mỹ hay gần nhất là Đài Loan (Trung Quốc) và Trung Quốc. Mỗi nơi mang đến những mô hình phát triển khác nhau, phản ánh cả đặc điểm hệ thống, tính thời điểm và năng lực bản địa.

Từ nước Mỹ, điều dễ nhận thấy nhất chính là vai trò dẫn dắt mạnh mẽ của chính phủ trong đầu tư vào nghiên cứu và kiến tạo thể chế khuyến khích đổi mới công nghệ cao. Ngành bán dẫn Mỹ không hình thành tự phát, mà được định hướng ngay từ sau Thế chiến II khi các chương trình quốc phòng, vũ trụ và máy tính cần đến vi mạch. Sự hỗ trợ từ các quỹ như NSF, các viện nghiên cứu như DARPA và các tập đoàn như Intel, AMD, IBM, Texas Instrument tạo nên một mạng lưới chặt chẽ giữa nhà nước, trường/viện và doanh nghiệp.

Bán dẫn không đơn thuần là một ngành công nghiệp công nghệ cao, mà là trụ cột mới để kiến tạo vị thế công nghệ, độc lập tự chủ và tự cường quốc gia trong kỷ nguyên số.

Sau khoảng thời gian phát triển công nghệ lõi, Mỹ đã quyết định không làm tất cả các khâu, mà tập trung vào công đoạn mang lại giá trị gia tăng cao đòi hỏi chất xám và có tỷ suất lợi nhuận vượt trội nhất. Chúng ta có thể học từ Mỹ là phải có chiến lược, phải tạo cơ chế để phát triển khoa học công nghệ và phải chọn ra phân khúc chiến lược phù hợp với năng lực hiện có để tập trung trong ngắn hạn. Ví dụ, những công đoạn Việt Nam đang có thế mạnh như thiết kế chip, đóng gói và kiểm thử hay phần mềm tự động hóa thiết kế (EDA).

Các công ty này đã có nhiều thành công trong việc tạo dựng, định hình, phát triển hệ sinh thái bán dẫn tại Việt Nam một cách chiến lược và bài bản.

Theo quan điểm cá nhân, Mỹ có thể cần các yếu tố về nguồn nhân lực, sự đa dạng trong chuỗi cung ứng, hạn chế rủi ro địa chính trị hay cơ hội tiếp cận các nguồn khoáng sản đất hiếm. Việt Nam có thể cần các yếu tố về công nghệ, kinh nghiệm và vốn.

Giữa hai bên đang có nhiều tiềm năng hợp tác sâu hơn trong ngành bán dẫn, mỗi nước có thế mạnh riêng và thực sự có nhu cầu làm việc cùng nhau và hỗ trợ nhau. Để hiện thực hóa các cơ hội hợp tác giữa hai nước và tận dụng các tiềm năng này, chúng ta cần xây dựng lòng tin chiến lược, ban hành chính sách và ưu đãi hợp lý cho các đối tác có chuyển giao công nghệ. Chúng ta cũng cần trao đổi với đối tác Mỹ để giảm thiểu hoặc gỡ bỏ các rào cản về tiếp cận công nghệ cao.

Nhìn chung, với năng lực công nghệ và tài chính rất khác so với Mỹ, rất khó để Việt Nam có thể học và áp dụng các bài học từ họ ngay lúc này, do phần lớn trong số chúng đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ, nguồn lực lớn về tài chính, con người với quy trình chuẩn quốc tế, hệ sinh thái đã trưởng thành. Đó là lý do vì sao cá nhân tôi vẫn khuyến khích Việt Nam tham khảo các mô hình có xuất phát điểm phù hợp hơn như Đài Loan (Trung Quốc) (giai đoạn năm 1980-1990) hay Trung Quốc (năm 2000).

Đài Loan (Trung Quốc) là ví dụ điển hình về cách một nền kinh tế nhỏ, ít tài nguyên, nhưng có chiến lược tập trung đúng phân khúc và đúng thời điểm. Đài Loan đã đầu tư mạnh vào Viện nghiên cứu công nghệ công nghiệp (ITRI), từ đó sinh ra TSMC (hãng gia công chip có thị phần và doanh thu đứng đầu thế giới). Ngay từ lúc đầu, họ không chạy đua thiết kế, mà làm tốt nhất duy nhất một việc: sản xuất chip theo yêu cầu (foundry). Công viên khoa học Tân Trúc là mô hình thành công đã kết nối chặt chẽ đại học, doanh nghiệp với hậu thuẫn từ chính phủ tạo ra chuỗi giá trị khép kín và văn hóa công nghệ, khởi nghiệp lan tỏa từ khâu sản xuất ra các khâu thiết kế nơi mà Mediatek, Realtek đang có vị thế không thể thay thế thời điểm hiện tại.

Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng mô hình này tại TP. Hồ Chí Minh, quy hoạch cụm công nghiệp bán dẫn với hạ tầng chuyên biệt, gắn đào tạo, nghiên cứu và phát triển, sản xuất với hệ thống trường đại học, hệ sinh thái công nghiệp phụ trợ và hạ tầng logistic thuận lợi. Đồng thời, chọn tập trung vào 1 hoặc 2 công đoạn có lợi thế cạnh tranh cao nhất sau đó mở rộng sang các công đoạn và phân khúc khác.

Trong khi đó, Trung Quốc theo đuổi mô hình khác với định hướng độc lập về công nghệ. Chính phủ Trung Quốc không ngại đầu tư hàng chục tỷ USD thông qua quỹ lớn (Big Fund), ưu đãi thuế cho các hãng sản xuất chip và hỗ trợ doanh nghiệp nội địa niêm yết để huy động vốn.

Việt Nam có thể học ở Trung Quốc là cần lập quỹ phát triển bán dẫn quốc gia, cơ chế hỗ trợ tài chính thực chất, tạo tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm hỗ trợ cho startup bán dẫn. Chúng ta cũng cần có chiến lược thu hút chuyên gia Việt kiều và thu hút chất xám từ quốc tế để rút ngắn khoảng cách về năng lực.

Từ Thung lũng Silicon (Mỹ) đến Tân Trúc (Đài Loan, Trung Quốc) và Thâm Quyến (Trung Quốc), mỗi nơi đều bắt đầu bằng đầu tư chiến lược và tư duy kiên định được duy trì hàng thập kỷ. Việt Nam đang ở ngưỡng cửa lịch sử để bước vào ngành công nghệ cao này một cách tự tin. Và tôi tin, sớm thôi, Việt Nam sẽ là một bài học thành công khác trong việc phát triển và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng vi mạch bán dẫn toàn cầu.

Khu vực kiểm định các linh kiện bán dẫn, Phòng thí nghiệm bán dẫn, Khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh. (Nguồn: VNE)

Khu vực kiểm định các linh kiện bán dẫn, Phòng thí nghiệm bán dẫn, Khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh. (Nguồn: VNE)

Lời khuyên của ông để doanh nghiệp Việt Nam tự tin phát triển ngành công nghiệp bán dẫn để ghi điểm với thế giới?

Để doanh nghiệp vi mạch bán dẫn Việt tự tin bước vào ngành công nghiệp nghìn tỷ USD này, điều cốt lõi là đi đúng hướng, có bản lĩnh và chiến lược. Là người có hơn 20 năm làm việc ngành vi mạch bán dẫn và đồng hành cùng nhiều công ty đa quốc gia tại Việt Nam, tôi tin sự thành công của doanh nghiệp Việt không chỉ đến từ yếu tố kỹ thuật hay công nghệ, mà còn từ tầm nhìn.

Đầu tiên, hãy chọn đúng phân khúc để tập trung. Việt Nam chưa cần cạnh tranh với những nhà sản xuất chip tiên tiến nhất thế giới, nhưng hoàn toàn có thể thiết kế, sản xuất các chip chuyên dụng phục vụ trí tuệ nhân tạo (AI), phương tiện máy bay không người lái (UAV), cảm biến đô thị, y tế, dân dụng hay chip đặc thù cho quốc phòng.

Việt Nam đang ở ngưỡng cửa lịch sử để bước vào ngành công nghệ cao này một cách tự tin. Và tôi tin, sớm thôi, Việt Nam sẽ là một bài học thành công khác trong việc phát triển và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng vi mạch bán dẫn toàn cầu.

Đây là lĩnh vực mang tính tùy biến cao, đòi hỏi sự am hiểu thị trường bản địa với tiêu chuẩn kỹ thuật đề cao an ninh và bảo mật nơi mà doanh nghiệp Việt có thể tạo dấu ấn rất riêng.

Thứ hai, đầu tư nghiêm túc vào nhân lực chất lượng cao. Doanh nghiệp Việt có thể thuê các chuyên gia quốc tế giỏi trong ngắn hạn đồng thời cần xây dựng đội ngũ kỹ sư hạt nhân, những người có thể làm chủ công nghệ và kiến trúc trong tương lai.

Việc liên kết với trường đại học, tài trợ học bổng, du học và học việc tại nước ngoài hay tạo môi trường sáng tạo sẽ giúp giữ chân nhân tài và hình thành văn hóa doanh nghiệp công nghệ nội địa.

Thứ ba, hãy hợp tác quốc tế một cách khôn ngoan. Doanh nghiệp Việt có thể mua và chuyển giao công nghệ, kết nối với chuyên gia, tham gia chương trình tăng tốc của các tập đoàn lớn, từ đó làm chủ thị trường và vươn tầm thế giới.

Nhưng quan trọng hơn là biết mình cần gì từ đối tác, cẩn thận làm chủ về dữ liệu, chủ động trong chuỗi cung ứng, đa dạng hóa nhà cung ứng vật liệu máy móc và có chiến lược sản phẩm để tránh lệ thuộc.

Cuối cùng, hãy xây dựng thương hiệu chip Việt gắn với giá trị: Sáng tạo, chất lượng và uy tín. Khi thế giới sử dụng chip "Make in Vietnam" và thấy sự ổn định, tin cậy, thông minh và khác biệt, đó chính là lúc doanh nghiệp Việt "ghi điểm" – không chỉ bằng sản phẩm, mà còn bằng niềm tin.

Với quyết tâm chính trị, Việt Nam hoàn toàn có khả năng phát triển thành công ngành bán dẫn. Dù vậy, vẫn cần một chiến lược với các bước đi cụ thể, rõ ràng, tinh thần dấn thân của doanh nhân, đội ngũ nhân lực giỏi và tầm nhìn toàn cầu.

Tôi vẫn mong chờ, trong 10 năm tới, thế giới sẽ không hỏi "Việt Nam có làm được chip không?" mà sẽ hỏi "Chip Việt có làm được điều mà họ không làm được không?"

Linh Chi

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/chuyen-gia-vi-mach-ban-dan-nguyen-phuc-vinh-10-nam-toi-the-gioi-se-khong-con-hoi-viet-nam-co-lam-duoc-chip-khong-325696.html