Cơ chế mới, chính sách thông thoáng kích hoạt sóng đầu tư
Việt Nam đang chứng kiến một 'điểm ngoặt' trong tư duy đầu tư hạ tầng. Việc các tập đoàn lớn trong và ngoài nước cùng lúc đề xuất đầu tư metro, cảng biển hay đường giao thông kết nối cho thấy niềm tin của khối tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn đã trở lại. Đây không chỉ là dòng vốn, mà còn là sự dịch chuyển về mô hình. Doanh nghiệp không chỉ làm nhà thầu mà chủ động đề xuất phương án tài chính, công nghệ, quản lý.

Tuyến Metro số 1 (Bến Thành - Suối Tiên). Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN
Từ chủ trương nhất quán thông suốt
Các đề xuất đầu tư hạ tầng gần đây của nhiều doanh nghiệp tư nhân lớn không chỉ dừng lại ở các dự án mới mà còn hướng vào những dự án đã có chủ trương như tuyến metro số 2 (Bến Thành - Tham Lương của TP Hồ Chí Minh. Các nhà đầu tư không chỉ tham gia với vai trò nhà thầu mà còn đề xuất cả phương án đầu tư, huy động vốn, thậm chí là các hình thức hợp tác mới. Đây là một tín hiệu rất tích cực, thể hiện sự tin tưởng của khối tư nhân vào tiềm năng phát triển của hạ tầng giao thông đô thị tại Việt Nam.
Trao đổi với phóng viên TTXVN về các đề xuất đầu tư hạ tầng gần đây, Tiến sĩ Nguyễn Kim Đức, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Tư vấn Phát triển vùng, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh cho biết, Việt Nam đang ghi nhận một “làn sóng” đề xuất đầu tư hạ tầng rất sôi động, đặc biệt là tại các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh. Điều này thể hiện rõ qua việc nhiều tập đoàn lớn trong nước và quốc tế từ Vingroup, Sun Group, Thaco, Hòa Phát đến các liên danh như Power China - Fecon, đều đã đề xuất tham gia vào các dự án trọng điểm như metro, cảng biển và tuyến đường kết nối.
Còn theo quan sát của ông Bùi Duy Hoàng, Viện Khoa học Xã hội Vùng Nam Bộ, sự bùng nổ các đề xuất đầu tư hạ tầng, đặc biệt là đường sắt đô thị tại TP Hồ Chí Minh cho thấy một “làn sóng” mới của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các tập đoàn lớn như Vingroup, Thaco, Sun Group, Hòa Phát cùng liên danh quốc tế như Power China - Fecon đã đồng loạt đưa ra đề xuất với phương án vốn cụ thể, thậm chí gắn với quỹ đất hoặc hình thức PPP, BT thế hệ mới. Đây không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, mà là kết quả tổng hòa của nhiều yếu tố.
Theo lý giải của ông Bùi Duy Hoàng, metro và hạ tầng đô thị được xác định là lĩnh vực ưu tiên chiến lược, có tác động lan tỏa đến phát triển vùng. Năng lực tài chính - kỹ thuật của doanh nghiệp Việt đã trưởng thành, đủ sức tham gia những dự án quy mô lớn. Điều quan trọng nhất là khung pháp lý mới đã tháo gỡ những “nút thắt” lâu nay.
Luật Đất đai và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh đã làm rõ cơ chế giao đất, cho thuê đất, thanh toán bằng quỹ đất. Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản bổ sung cơ chế huy động vốn, khai thác quỹ đất gắn với dự án hạ tầng. Đặc biệt, Luật Các tổ chức tín dụng tăng cường khung pháp lý về tín dụng, xử lý nợ, tạo sự thông suốt nguồn vốn. Nhờ đó, rủi ro pháp lý và tài chính giảm đáng kể, khiến doanh nghiệp lớn không còn thụ động “chờ mời thầu” mà chủ động đề xuất dự án hạ tầng chiến lược - ông Hoàng phân tích.
Còn theo PGS, TS Nguyễn Tấn Vinh - Giám đốc Học viện Chính trị khu vực II, có nhiều nguyên nhân thực tiễn thúc đẩy “làn sóng” này, đó là việc metro số 1 vận hành tốt đã chứng minh nhu cầu di chuyển bằng đường sắt đô thị là rất lớn, các nhà ga trung tâm như Bến Thành, Ba Son, Nhà hát thành phố đều tạo điểm hút lớn. Thêm nữa, không gian phát triển mới như Cần Giờ, Thủ Thiêm, Long Thành, Vành đai 4 - đặc biệt tuyến metro kết nối vùng, mở rộng đô thị - tạo “quỹ đất dài hạn”, giá trị bất động sản gắn với hạ tầng công cộng tăng cao, làm cơ hội đầu tư hấp dẫn hơn nhiều. Cùng đó là sự tham gia của các nhà đầu tư lớn trong nước có khả năng tài chính mạnh, sẵn sàng đàm phán phương án vốn và phương án thực hiện rõ ràng, không chỉ đề xuất sơ khởi.
Về lâu dài, PGS, TS Nguyễn Tấn Vinh cho rằng, sự nhập cuộc đồng loạt của các tập đoàn lớn cùng liên danh cho thấy thị trường hạ tầng Việt Nam - đặc biệt TP Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ đang thay đổi bước sang giai đoạn mới. Cạnh tranh cao hơn, liên kết vùng được đặt lên hàng đầu, nhà đầu tư không chỉ tìm kiếm lợi nhuận mà còn muốn đồng hành với chiến lược đô thị hóa, phát triển bền vững và phục vụ mục tiêu môi trường - giao thông công cộng... Đây là tín hiệu tích cực mở ra triển vọng mới nếu các dự án được thực hiện đồng bộ, minh bạch và có năng lực thực thi cao.
Sự xuất hiện của “làn sóng” đầu tư hạ tầng hiện nay trước hết là kết quả trực tiếp từ chủ trương nhất quán của Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân - PGS, TS. Nguyễn Tấn Vinh khẳng định.
Cơ chế, chính sách mới đã tạo sức hấp dẫn mạnh mẽ cho hạ tầng. Luật PPP, Luật Đất đai 2024, cùng với Nghị quyết 188/2025/QH15 về đường sắt đô thị tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã tháo gỡ nhiều nút thắt, từ cơ chế BT mới, cơ chế TOD, đến việc rút ngắn thủ tục và mở rộng không gian huy động vốn. Chính nhờ những thay đổi này, các dự án hạ tầng không chỉ còn là “gánh nặng ngân sách”, mà đã trở thành cơ hội đầu tư - kinh doanh hấp dẫn cho doanh nghiệp.
Sự gặp nhau của hai yếu tố, định hướng chính trị đúng đắn và cải cách thể chế kịp thời đã “cởi trói” cho tư nhân, khuyến khích họ mạnh dạn dấn thân vào các dự án hạ tầng chiến lược. Đây là minh chứng rõ rệt cho tinh thần đổi mới và hội nhập của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nếu như chủ trương phát triển kinh tế tư nhân và khung chính sách mới tạo “nền tảng”, thì sự đơn giản hóa thủ tục và việc trao quyền chủ động cho doanh nghiệp chính là yếu tố “thúc đẩy trực tiếp” của làn sóng đầu tư hiện nay.
Đến khơi thông cơ chế rõ ràng

Tàu Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên di chuyển từ trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh hướng Suối Tiên. Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN
Trước đây, các dự án hạ tầng thường mất rất nhiều thời gian trong các khâu chuẩn bị, thẩm định, phê duyệt, khiến chi phí cơ hội đối với doanh nghiệp tăng cao. Nay với Nghị quyết 188/2025/QH15, nhiều bước thủ tục đã được rút ngắn. Một số dự án không cần qua vòng “chủ trương đầu tư”, quyền thẩm định được phân cấp cho địa phương, đồng thời cho phép áp dụng chỉ định thầu trong những trường hợp đặc thù. Doanh nghiệp có thể bước vào bàn tính toán và triển khai nhanh hơn, thay vì chờ đợi kéo dài.
Thực tế, dự án metro số 1 (Bến Thành - Suối Tiên) dù được phê duyệt từ năm 2007, mất tới 17 năm từ lúc phê duyệt đến ngày vận hành thương mại (22/12/2024), vì phải vượt qua nhiều vòng thẩm định, điều chỉnh, giải phóng mặt bằng, thay đổi nguồn vốn, thay đổi thiết kế. Nay với cơ chế mới, tuyến Metro số 2 (Bến Thành - Tham Lương) được dự kiến khởi công vào cuối năm 2025, giai đoạn chuẩn bị đầu tư (thiết kế, đấu thầu tư vấn, thiết bị) đang được tập trung đẩy nhanh.
Với những thay đổi này, doanh nghiệp không còn phải “chờ đợi kéo dài cả chục năm” để triển khai dự án sau khi có ý tưởng, mà có thể bước vào ngay các bước kỹ thuật, tìm đối tác, vận dụng vốn. Đây chính là yếu tố khiến các đề xuất giờ đây đi kèm báo cáo tiền khả thi, thiết kế tổng thể, đề xuất mô hình vốn - minh chứng rằng doanh nghiệp là đồng chủ thể, chứ không chỉ là thụ hưởng chính sách.
Không chỉ vậy, cơ chế PPP (đối tác công tư) và BT (xây dựng - chuyển giao) mới cũng tạo không gian linh hoạt để doanh nghiệp chủ động thiết kế phương án vốn, quản lý rủi ro, và tham gia ngay từ giai đoạn ý tưởng. Điều này giúp doanh nghiệp cảm thấy họ thực sự là “người đồng kiến tạo” cùng Nhà nước trong phát triển hạ tầng, chứ không chỉ là “nhà thầu” thụ động. Chính sự dịch chuyển này – từ quản lý chặt chẽ theo hướng thủ tục sang quản trị theo kết quả và đối tác – đã thổi luồng sinh khí mới, làm bùng nổ làn sóng đề xuất dự án mà chúng ta đang chứng kiến - PGS, TS. Nguyễn Tấn Vinh nhận xét.
Theo chia sẻ của Tiến sĩ Nguyễn Kim Đức, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Tư vấn Phát triển vùng, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, rõ ràng, làn sóng đầu tư này không phải tự nhiên xuất hiện, mà là kết quả của một “tổ hợp chính sách” đã được chuẩn bị từ nhiều năm.
Các yếu tố quan trọng nhất, đó là phát triển và liên kết vùng. Bộ Chính trị ban hành 6 Nghị quyết về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh của 6 vùng. Việc hoạt động hiệu quả của Hội đồng điều phối vùng cũng như điểm nhấn về liên kết vùng thông qua kết nối hạ tầng là khởi điểm cho làn sóng mới ngày hôm nay.
Ổn định vĩ mô, kinh tế Việt Nam giữ được ổn định trong bối cảnh toàn cầu bất định, nhiều dự án giao thông lớn đã khởi công và hoàn thành, tạo “niềm tin lan tỏa” cho khu vực tư nhân. Nghị quyết 68 là bước đột phá khi xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, kèm theo cơ chế bảo vệ quyền tài sản và tự do kinh doanh. Để “làn sóng đầu tư” này không chỉ dừng ở các đề xuất mà sớm trở thành những công trình cụ thể thì sớm có những cơ chế rõ ràng, đồng thời triển khai các nhóm giải pháp trọng tâm trước mắt cũng như lâu dài.
Theo PGS, TS Nguyễn Tấn Vinh, cần sớm hoàn thiện thể chế và khung pháp lý, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, đa dạng hóa nguồn vốn và cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao năng lực của doanh nghiệp trong nước và chuỗi cung ứng. Các dự án metro, cao tốc hay đại lộ ven sông đều đòi hỏi công nghệ cao, an toàn hệ thống nghiêm ngặt. Việc khuyến khích liên danh giữa doanh nghiệp nội và quốc tế, gắn với yêu cầu chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực, là rất cần thiết. Bảo đảm yếu tố phát triển bền vững để mọi dự án hạ tầng phải gắn với đánh giá tác động môi trường, bảo tồn sinh thái và hướng tới mô hình TOD - phát triển đô thị nén quanh các ga metro.
Nếu coi nhà nước là “nhạc trưởng”, thì cơ chế minh bạch, quản lý hiệu quả, tài chính thông suốt, doanh nghiệp vững mạnh và phát triển bền vững chính là “năm nhạc cụ” cần được phối hợp hài hòa để “bản giao hưởng” đầu tư hạ tầng của Việt Nam thực sự vang lên mạnh mẽ.